F. Engels
T́nh cảnh giai cấp công nhân Anh
GIAI CẤP VÔ SẢN NÔNG NGHIỆP
Trong "Lời mở đầu", ta đă thấy tầng lớp tiểu nông bị phá sản đồng thời với giai
cấp tiểu tư sản, cũng như những công nhân xưa kia, vốn có cuộc sống dễ chịu; đó
là v́ sự kết hợp trước kia giữa lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp đă
mất đi, những mảnh ruộng nhỏ bỏ hoang được tập trung vào tay các tá điền lớn,
c̣n những tiểu nông bị tiêu diệt trước sức cạnh tranh áp đảo của các nhà kinh
doanh lớn. Tiểu nông không c̣n là chủ ruộng hoặc tá điền như xưa nữa, họ buộc
phải bỏ kinh doanh cá thể, để đi làm thuê cho các tá điền kiêm chủ đất lớn, hoặc
cho các lănh chúa. Suốt một thời gian, t́nh cảnh mới của họ, dù đă kém hơn
trước, nhưng vẫn c̣n chịu được. Bấy giờ, nhân khẩu tăng cùng nhịp độ với sự mở
rộng công nghiệp, nhưng sau này, công nghiệp phát triển chậm lại, c̣n máy móc
vẫn được cải tiến không ngừng, thế là công nghiệp không thể thu hút toàn bộ số
nhân khẩu thừa từ các khu nông nghiệp đổ ra nữa. Từ đó trở đi, hiện tượng nghèo
đói, trước kia chỉ thỉnh thoảng mới có ở các khu công xưởng, nay đă có cả ở nông
thôn. Hơn nữa, đây cũng là thời ḱ kết thúc cuộc chiến tranh 25 năm với Pháp.
Vào thời chiến, việc sản xuất ở các vùng chiến sự bị giảm, t́nh h́nh nhập khẩu
th́ đ́nh đốn, và nhu cầu lương thực cho quân đội Britain ở Tây Ban Nha, đă tạo
ra cho nông nghiệp Anh một sự phồn vinh giả tạo; ngoài ra là một số lớn nhân lực
phải tham gia quân ngũ. Bây giờ, mọi yếu tố đó bỗng nhiên cùng biến mất, và hậu
quả tất yếu là nông nghiệp rơi vào nguy khốn, agricultural distress, như người
Anh nói. Các chủ đất buộc phải bán lương thực với giá rẻ, do đó họ chỉ có thể
trả tiền lương rất thấp. Để nâng giá lên, năm 1815, Nghị viện đă thông qua đạo
luật ngũ cốc, cấm nhập khẩu ngũ cốc khi giá lúa ḿ rẻ hơn 80 shilling một
quarter. Về sau, đạo luật tất nhiên là vô hiệu ấy c̣n được sửa đổi nhiều lần,
nhưng cũng không giảm bớt được sự khốn khó của các khu nông nghiệp. Kết quả duy
nhất là căn bệnh ấy, trước kia là cấp tính, do có sự cạnh tranh tự do của nước
ngoài, giờ th́ biến thành măn tính; nó gây hại tới t́nh cảnh của công nhân
nông nghiệp một cách đều đều, nhưng ngày càng nghiêm trọng.
Khi giai cấp vô sản nông nghiệp mới xuất hiện, những quan hệ gia trưởng
ở ngành ấy, giữa chủ trang trại và công nhân, cũng đă phát triển; giống như
những quan hệ vừa mới bị phá hủy trong công nghiệp, hay như những quan hệ giữa
địa chủ và cố nông, mà hiện nay vẫn có ở hầu khắp nước Đức. Khi quan hệ ấy c̣n,
th́ sự bần cùng của công nhân không quá nghiêm trọng và lan rộng; thợ và chủ
đồng cam cộng khổ, cùng quẫn lắm mới có chuyện sa thải. Nhưng giờ th́ khác hẳn.
Người làm hầu hết đều trở thành công nhân công nhật, chủ trang trại chỉ thuê họ
khi cần, thế là nhiều khi họ bị thất nghiệp hàng mấy tuần, nhất là về mùa đông.
Với mối quan hệ gia trưởng, người làm và gia đ́nh họ đều sống trong trang trại
của chủ, khi con cái của thợ lớn lên ở đây, th́ người chủ sẽ cố t́m việc làm cho
chúng tại trang trại của ḿnh; bấy giờ, công nhân công nhật chỉ là ngoại lệ,
không phải lúc nào cũng có, thế là số công nhân ở mỗi trang trại đều nhiều hơn
số thực sự cần. Do đó, chủ trang trại thích hủy bỏ mối quan hệ gia trưởng ấy,
đuổi người làm ra khỏi trang trại của ḿnh, biến họ thành công nhân công nhật.
Cuối những năm 1820, t́nh h́nh đó diễn ra ở hầu hết mọi nơi. Kết quả là, nói
theo kiểu vật lí học, nhân khẩu "thừa" trước kia ở trạng thái tiềm tàng, bây giờ
đă lộ ra; tiền lương giảm, c̣n thuế trợ giúp người nghèo th́ tăng gấp bội. Từ đó, các vùng nông nghiệp biến thành trung tâm của sự
bần cùng kinh
niên, c̣n các khu công xưởng là đầu năo của sự
bần cùng theo chu ḱ; việc sửa đổi đạo luật về người nghèo là biện
pháp đầu tiên mà chính phủ buộc phải dùng, để đối phó với sự bần cùng hóa ngày
càng nghiêm trọng của nông thôn. Ngoài ra, nông nghiệp qui mô lớn không ngừng
phát triển, máy tuốt lúa và các máy móc khác được sử dụng, và việc đồng áng cũng
thường sử dụng lao động của phụ nữ và trẻ em (việc đó nay đă phổ biến đến nỗi,
mới đây, một ủy ban đặc biệt của Nhà nước đă điều tra hậu quả của nó), thế là
ngành này cũng đă xuất hiện nhiều công nhân thất nghiệp. Vậy, ta có thể thấy,
chế độ sản xuất công nghiệp cũng xâm nhập tới đây, tạo ra nền kinh doanh lớn,
phá hủy quan hệ gia trưởng (chính tại đây, quan hệ ấy có ư nghĩa lớn nhất), sử
dụng máy móc, động cơ hơi nước, cùng với lao động của phụ nữ và trẻ em; thế là
bộ phận sau cùng và ổn định nhất của nhân dân lao động cũng bị cuốn vào phong
trào cách mạng. Nhưng sự đ́nh trệ trong nông nghiệp càng kéo dài, th́ sự khốn
khổ mà công nhân đang phải chịu càng nặng nề, sự tan ră của kết cấu xă hội cũ
càng diễn ra kịch liệt. "Nhân khẩu thừa" th́ xuất hiện đột ngột, mà không thể
giải quyết bằng cách mở rộng sản xuất như với công nghiệp. Có thể xây dựng công
xưởng mới bất ḱ lúc nào, miễn là có người mua hàng; nhưng ruộng đất mới th́
không thể tạo ra, mà việc khai phá những đất bỏ hoang công cộng th́ khá mạo
hiểm, nên từ sau chiến tranh, vốn đầu tư vào đó rất ít. Kết quả tất yếu là sự
cạnh tranh trong công nhân đạt tới điểm cao nhất, và tiền lương bị hạ xuống mức
thấp nhất. Khi đạo luật cũ về người nghèo vẫn c̣n, th́ nhờ quĩ tế bần mà công
nhân được giúp đỡ đôi chút; và tất nhiên là tiền lương do đó mà càng giảm, v́
bọn chủ trang trại t́m mọi cách để đẩy chi phí nuôi công nhân cho quĩ tế bần
gánh vác. Việc đó làm cho thuế trợ giúp người nghèo, vốn đă tăng rất nhiều do sự
xuất hiện của nhân khẩu thừa, nay lại cao thêm, và khiến đạo luật mới về người
nghèo trở nên cần thiết; ta sẽ c̣n nói tới điểm ấy. Nhưng việc đó không cải
thiện được t́nh h́nh. Tiền lương không được tăng, "nhân khẩu thừa" không được
loại trừ, sự tàn khốc của pháp luật mới chỉ làm cho nhân dân phẫn nộ đến cực
điểm. Thậm chí khi mới áp dụng luật đó, mức thuế có giảm; nhưng sau vài năm, nó
lại lên như cũ. Kết quả duy nhất của đạo luật mới là: nếu trước đây có 3-4 triệu
người nửa nghèo khổ, th́ nay có 1 triệu người hoàn toàn nghèo
khổ; số c̣n lại ở t́nh trạng nửa nghèo khổ, nhưng không c̣n được cứu tế chút
ǵ nữa. Sự bần cùng ở các khu nông nghiệp mỗi năm một lớn. Người dân sống trong
cảnh thiếu thốn ghê gớm nhất, cả gia đ́nh chỉ có 6-8 shilling mỗi tuần, đôi khi
c̣n chẳng có ǵ. Năm 1830, một nghị sĩ thuộc Đảng tự do đă miêu tả t́nh cảnh của
bộ phận cư dân ấy, hăy nghe ông ta nói:
"Người nông dân Anh (tức
công nhân nông nghiệp) và người dân nghèo Anh, hai
từ ấy đồng nghĩa. Bố anh ta là một dân nghèo, sữa mẹ anh ta thiếu chất bổ; từ
bé, anh ta đă phải ăn uống kém và chẳng bao giờ đủ no; đến tận ngày nay, lúc nào
không ngủ là anh ta luôn thấy đói cồn cào. Quần áo anh ta chỉ đủ che nửa thân,
chất đốt chỉ đủ nấu bữa ăn kham khổ, thế nên rét mướt và ẩm ướt là những bạn
thân của anh ta, chúng đến và đi cùng với thời tiết xấu. Anh ta có vợ, nhưng
không được hưởng cái thú làm chồng, làm cha. Vợ con anh ta thường bị đói, hầu như
luôn bị rét, hay ốm đau mà không được ai giúp
đỡ, lúc nào cũng buồn bă và chán nản như anh ta; tất nhiên là tham lam, ích kỉ
và bực bội. Do đó, theo lời anh ta, 'cứ nh́n thấy vợ con là lộn ruột lên'
(hates the sight of them); và nếu anh ta có quay về túp
lều của ḿnh, th́ chỉ v́ nó vẫn c̣n là nơi tránh mưa gió tốt hơn cái bờ rào. Anh
ta phải nuôi gia đ́nh, nhưng không làm nổi, nên phải đi ăn mày, làm đủ việc xấu
xa, cuối cùng là lừa đảo công khai. Dù rất muốn học theo những kẻ liều lĩnh hơn
của giai cấp ḿnh, như bọn săn trộm hay buôn lậu nhà nghề, nhưng anh ta không đủ
táo tợn; tuy vậy, hễ có cơ hội là anh ta ăn cắp, rồi dạy con cái nói dối và ăn
cắp. Sự khúm núm hèn hạ của anh ta với những người láng giềng giàu có cho thấy
là họ thường thô bạo và nghi ngờ anh ta; v́ vậy, anh ta vừa sợ vừa ghét họ,
nhưng không bao giờ dám chống lại họ bằng bạo lực. Anh ta hư hỏng đến tận xương
tủy, và hèn kém đến mức không c̣n hơi sức để thất vọng nữa. Anh ta sống cuộc đời
bất hạnh ngắn ngủi, bệnh tê thấp và hen suyễn sẽ đưa anh ta tới nhà tế bần, ở đấy anh ta sẽ thở hơi
cuối cùng, chẳng hề có một hồi ức ǵ vui vẻ, và nhường chỗ cho một kẻ
bất hạnh khác, cũng đă sống và sẽ chết như anh ta".
Tác giả nói thêm rằng, ngoài loại công nhân nông nghiệp ấy ra, c̣n một lớp người
khác mạnh mẽ hơn, phát triển hơn về cả thể lực, trí tuệ và đạo đức: dù cũng sống
trong cảnh nghèo khổ, nhưng họ không nghèo từ lúc sinh ra. Họ quan tâm đến gia
đ́nh nhiều hơn, nhưng v́ là những kẻ buôn lậu và ăn trộm, nên họ thường có xung
đột đổ máu với lực lượng kiểm lâm và bảo vệ bờ biển; v́ thường phải ngồi tù, nên
họ thù ghét xă hội nhiều hơn, và cũng căm thù kẻ có
của không kém ǵ loại người thứ nhất. Cuối cùng, tác giả nói:
"V́ lịch sự (by courtesy)
mà người ta gọi toàn bộ loại người ấy là "nông dân kiêu hănh của nước Anh" (bold peasantry of England, đây là cách gọi của Shakespeare)1*
Đến nay, những miêu tả ấy vẫn đúng với phần lớn công nhân các khu nông nghiệp.
Tháng Sáu 1844, tờ "Time" đă cử một phóng viên đến những miền ấy để điều tra về
t́nh cảnh của lớp người này, và báo cáo của ông ta hoàn toàn phù hợp với những
lời trên. Ở một số khu, tiền lương mỗi tuần không quá 6 shilling, nghĩa là không
cao hơn so với ở nhiều miền của Đức, trong khi giá hàng thiết yếu ở Anh ít ra
cũng gấp đôi ở Đức. Dễ dàng tưởng tượng được cuộc sống của những người này như
thế nào. Thức ăn ít và tồi, quần áo tả tơi; nhà ở chật hẹp, đổ nát, chỉ là một
túp lều nhỏ thảm hại, không có tiện nghi ǵ; thanh niên th́ ở các nhà trọ, nam
nữ hầu như lẫn lộn, dẫn đến chỗ quan hệ nam nữ hỗn loạn. Trong một tháng, chỉ
cần vài ngày không có việc làm, là họ sẽ rơi vào cảnh nghèo khổ cùng cực. Hơn
nữa, họ sống phân tán, nên không thể liên kết thành công liên để đấu tranh đ̣i
tăng lương; nếu ai đó không chịu làm việc v́ lương thấp, th́ sẽ có ngay hàng tá
kẻ thất nghiệp hoặc đang ở trong nhà tế bần sẵn sàng thế chỗ anh ta, họ sẽ vui
vẻ nhận việc dù lương thấp đến đâu; kẻ không chịu làm kia sẽ bị phỉ nhổ là lười
biếng, lêu lổng, và không nhận được sự giúp đỡ ǵ, trừ việc bị tống vào nhà tế
bần đáng ghét; v́ cơ quan trợ giúp người nghèo đều do các chủ trang trại quản
lí, kẻ "lêu lổng" kia chỉ có trông vào họ, hoặc là láng giềng thân thích của họ,
th́ mới có được việc làm. Đó không phải là những tin tức ngẫu nhiên về một vài
khu nông nghiệp ở Anh; tại miền Nam cũng như Bắc, Đông cũng như Tây, nạn khốn
cùng đều nặng nề
giống nhau. T́nh cảnh công nhân ở Suffolk hay Norfolk
cũng là t́nh cảnh công nhân ở Devonshire, Hampshire hay Sussex; dù ở Dorsetshire, Oxfordshire hay ở Kent,
Surrey, Buckinghamshire, Cambridgeshire, tiền lương đều thấp như
nhau.
Một biện pháp đặc biệt tàn khốc chống giai cấp vô sản nông nghiệp là các
đạo luật về săn bắn: không ở đâu mà luật ấy lại ngặt nghèo như ở Anh, dù thú săn
ở Anh nhiều không kể xiết. Theo phong tục và truyền thống xưa của người Anh, săn
trộm được coi là một biểu hiện tự nhiên và cao thượng của ḷng dũng cảm. Thêm
vào đó, sự tương phản giữa nỗi đói khổ của chính họ, với cái car tel est notre plaisir2
của người quí tộc, thả sức nuôi cả ngàn con thỏ và dă cầm trong rừng nhà ḿnh để
tiêu khiển, lại càng thúc đẩy nông dân làm thế. Anh ta đặt bẫy, đôi khi bắn chết
một con thú, điều ấy thực ra chẳng thiệt hại mấy cho ngài quí tộc, v́ dă thú rất
nhiều; nhưng anh nông dân th́ kiếm được một bữa ăn cho vợ con đang đói. Nhưng
nếu bị bắt th́ anh ta phải đi tù, nếu tái phạm th́ bị đi đày ít nhất bẩy năm.
H́nh phạt hà khắc ấy dẫn tới xung đột đổ máu thường xuyên, giữa những người săn
trộm và lực lượng kiểm lâm, kết quả là mỗi năm đều có một loạt án mạng. V́ thế,
nghề kiểm lâm không chỉ nguy hiểm, mà c̣n bị khinh bỉ và nguyền rủa. Năm ngoái,
có hai người gác rừng thà tự bắn vào đầu ḿnh, chứ không muốn tiếp tục làm nghề
ấy. Đó chính là cái giá "rẻ mạt" mà bọn quí tộc ruộng đất đă trả, để chúng có
được thú vui săn bắn cao thượng! Nhưng các lord of the soil3
có ǵ phải lo về việc đó? Nhân khẩu thừa tăng hay giảm vài người, th́ cũng có là
ǵ với chúng đâu! Ngay cả nếu có một nửa số nhân khẩu "thừa" ấy phải chết v́ hậu
quả của những đạo luật về săn bắn, th́ nửa c̣n lại sẽ được sống tốt hơn; đó là kiểu bác ái của giai cấp có của ở Anh.
Dù điều kiện sống ở nông thôn (chỗ ở phân tán, hoàn cảnh và nghề nghiệp
ổn định, do đó mà tư tưởng bị tŕ trệ) rất bất lợi cho mọi sự phát triển, nhưng
sự đói khổ và túng thiếu cũng vẫn phát sinh kết quả. Công nhân công xưởng và
công nhân mỏ đă sớm vượt qua giai đoạn thứ nhất của cuộc đấu tranh chống trật tự
xă hội, tức là phản kháng trực tiếp bằng hành vi phạm tội của cá nhân; c̣n nông
dân vẫn đang ở giai đoạn ấy. Thủ đoạn chiến tranh xă hội mà họ quen dùng nhất là
phóng hỏa. Sau Cách mạng tháng Bẩy, vào mùa đông 1830-31, các vụ đốt phá bắt đầu
phổ biến. Đến đầu tháng Mười, do đội bảo vệ bờ biển được tăng cường (thế nên
việc buôn lậu trở nên rất khó khăn, và theo một chủ trang trại th́ "miền
ven biển đă bị phá sản"), do việc sửa đổi đạo luật về người nghèo, do tiền
lương thấp và việc sử dụng máy móc; ở Sussex và các tỉnh lân cận đă có nhiều vụ
bạo động, rồi cả vùng rơi vào rối loạn. Vào mùa đông, người ta đốt những đống rơm
rạ và cỏ khô trên ruộng đất của các chủ trang trại, thậm chí cả các kho tàng và
chuồng súc vật gần nhà chúng. Hầu như đêm nào cũng có vài vụ cháy như thế,
khiến các lănh chúa và chủ trang trại sợ hăi. Hầu như không bao giờ t́m ra thủ
phạm, và nhân dân liền đổ cho một nhân vật thần bí là "Swing". Người ta nghĩ nát óc
xem "Swing" là ai, và v́ sao mà dân nghèo nông thôn lại nổi loạn như vậy; nhưng rất ít ai nghĩ đến cái động cơ lớn là nghèo khổ
và áp bức, mà ở vùng nông nghiệp th́ chắc chắn là chẳng ai nghĩ
tới. Từ đó, cứ đến mùa đông, mùa thất nghiệp của công nhân nông nghiệp, lại có
các vụ phóng hỏa. Mùa đông 1843-44 c̣n có nhiều vụ gấp bội. Trước mặt tôi là một
loạt các số của tờ "Northern Star" vào thời ḱ ấy, mỗi số đều đăng tin về vài vụ
đốt phá, có nói rơ nguồn tin. Có vài số báo không được liệt kê ra đây, đó là v́
tôi không có được chúng, nhưng chắc chắn là trong đó cũng có không ít tin về các
vụ như thế. Hơn nữa, một tờ báo thôi th́ dĩ nhiên không thể có tin về mọi vụ
việc. Tờ "Northern Star" số ra ngày 25 tháng Mười một 1843, đưa tin 2 vụ, nhắc
đến nhiều vụ khác đă đưa tin trước đó. Ngày 16 tháng Chạp: ở Bedfordshire, cả
vùng náo động từ hai tuần nay, v́ đêm nào cũng có vài vụ phóng hỏa, mấy ngày qua
đă có hai trang trại lớn bị đốt; bốn trang trại lớn nữa ở
Cambridgeshire, và một ở Hertfordshire, đều bị thiêu hủy; và
mười lăm vụ phóng hỏa ở nhiều nơi khác. Ngày 30 tháng Chạp ở
Norfolk xảy ra một vụ, ở
Suffolk hai vụ, ở Essex hai
vụ, ở Hertfordshire
ba vụ, ở Cheshire
một vụ, ở Lancashire một
vụ; ở Derby, Lincoln và miền nam, có mười
hai vụ. Ngày 6 tháng Giêng 1844, có tất cả 10 vụ; ngày 13 tháng Giêng, bẩy
vụ; ngày 20 tháng Giêng, bốn vụ. Từ đó, b́nh quân mỗi tuần, tờ báo ấy lại có tin
về 3-4 vụ phóng hỏa, và t́nh h́nh ấy không chỉ kéo dài đến mùa xuân như trước,
mà tới tận tháng Bẩy, tháng Tám. Theo các tin đăng trên báo chí Anh và Đức mà tôi
nhận được, có thể thấy là gần tới mùa đông
1844-45, hành vi phạm pháp ấy càng trở nên phổ biến.
Các bạn đọc của tôi sẽ nghĩ ǵ về t́nh h́nh như thế, ở các vùng nông
thôn Anh yên tĩnh và b́nh dị? Có phải là chiến tranh xă hội? Có phải t́nh h́nh
đó là tự nhiên và sẽ tồn tại lâu dài? Thế mà ở đây bọn chủ trang trại và chúa
đất vẫn ngu xuẩn và bảo thủ, cái ǵ không mang lại tiền bạc cho họ th́ họ hoàn
toàn không nh́n thấy, hệt như phần lớn những chủ xưởng và người tư sản ở các khu công nghiệp. Bọn tư sản và chủ
xưởng th́ hứa hẹn hạnh phúc bằng sự xóa
bỏ các đạo luật ngũ cốc, c̣n bọn lănh chúa và phần lớn các chủ trang trại
th́ lại hứa hẹn về thiên đường trần thế bằng
sự duy tŕ các đạo luật ấy. Nhưng trong cả hai trường hợp, ảo tưởng
đáng yêu của chúng đều không được công nhân ủng hộ. Công nhân công xưởng cũng
như công nhân nông nghiệp đều chẳng quan tâm đến sự xóa bỏ hay duy tŕ các đạo
luật ngũ cốc. Tuy vậy, với cả hai loại công nhân đó, vấn đề ấy đều rất quan
trọng. Nếu các đạo luật ngũ cốc bị xóa bỏ, th́ tự do cạnh tranh và chế độ kinh
tế xă hội hiện tại sẽ phát triển đến cực độ; khi đó, mọi khả năng phát triển hơn
nữa trong phạm vi quan hệ hiện tại sẽ không c̣n nữa, và khả năng duy nhất để
tiến bộ là thay đổi căn bản chế độ xă hội. Đối với công nhân nông nghiệp, vấn đề
này c̣n quan trọng v́ những lí do sau: việc tự do nhập khẩu lương thực sẽ quyết
định (v́ sao mà quyết định th́ tôi không thể nói ở đây)
việc giải phóng các chủ trang trại khỏi địa chủ, nói cách khác, đó là việc đưa
những chủ trang trại sang hàng ngũ Đảng tự do. Về điểm này, Đồng minh chống đạo
luật ngũ cốc đă góp phần không ít, và đó cũng là công lao duy nhất của nó. Nhưng
nếu các chủ trang trại trở thành người thuộc
Đảng tự do, tức là những người tư sản có ư thức; th́ công nhân của họ nhất định sẽ trở thành người thuộc phái Hiến chương và phái xă hội chủ nghĩa, tức
là những người vô sản giác ngộ. Cái nọ kéo theo cái kia. Hiện nay, một
phong trào mới đă bắt đầu trong giai cấp vô sản nông nghiệp: cuộc mít-tinh
do bá tước Radnor, một địa chủ
thuộc Đảng tự do, tổ chức vào tháng Mười 1844 ở
vùng ruộng đất của ông ta gần
Highworth, để phản đối các đạo luật ngũ cốc, đă chứng minh điều ấy; công
nhân rất thờ ơ với các đạo luật ấy, nhưng họ có những yêu sách khác hẳn, như
việc thuê những mảnh đất nhỏ với giá rẻ, nh́n chung là họ nói thẳng vào mặt bá
tước Radnor không ít sự thực chua cay. Vậy, phong trào công nhân đă thâm nhập
vào các khu nông nghiệp hẻo lánh, bảo thủ, thường ở trong t́nh trạng mê ngủ về
tinh thần; và v́ những vùng ấy hầu hết là nghèo khổ, nên phong trào sẽ bắt rễ
nhanh và cũng sôi nổi như ở các khu công
xưởng.
Công nhân nông nghiệp dĩ nhiên là mộ đạo hơn công nhân công nghiệp,
nhưng quan hệ giữa họ với giáo hội vẫn rất lạnh nhạt, v́ hầu hết cư dân ở những
khu vực ấy đều theo Anh giáo. Một phóng viên của tờ "Morning Chronicle", lấy bút
danh là
"Người đi theo sau cái
cày"4, viết về chuyến đi của ḿnh qua các vùng nông thôn, đă
kể lại câu chuyện giữa ông ta với các công nhân công nhật nông nghiệp trước cửa
nhà thờ:
"Tôi hỏi một người trong họ rằng: giáo sĩ hôm nay có phải là linh mục
cố định của họ không? 'Đúng rồi, quỉ bắt hắn đi (Yes, blast him), hắn là
cố đạo chính cống của chúng tôi; hắn ḱ kèo xin tiền luôn, từ ngày tôi biết hắn
đến nay,
lúc nào hắn cũng thế' (giáo sĩ hô hào quyên tiền để dùng vào việc
cải tạo tín đồ dị giáo). Một
người khác nói: 'Từ ngày tôi biết hắn đến nay, tôi chưa gặp một cố đạo nào không
ḱ kèo xin tiền liên tục, cho việc này hay việc khác'. Một người đàn bà vừa ở
nhà thờ ra nói: 'Vâng, tiền lương th́ cứ giảm măi, thế mà anh xem bọn ăn không
ngồi rồi giàu có kia, mà các cố đạo tới ăn uống và đi săn với chúng nó đấy. Chúa
ơi, chúng tôi thà vào nhà tế bần hoặc chết đói c̣n hơn bỏ tiền cho bọn cố đạo ấy
đi tới chỗ tín đồ dị giáo!' Một phụ nữ khác nói: 'Mà sao không phái bọn cố đạo
ngày nào cũng tụng kinh ở thánh đường
Salisbury đi; ở đấy, ngoài mấy bức tường đá ra, có ai thèm nghe họ đâu? Không hiểu
sao bọn ấy lại không tới chỗ tín đồ
dị giáo?' Ông già nói chuyện với tôi đầu tiên bảo:
'Những thằng cha ấy không đi, v́ chúng giàu, đất đai
của chúng nhiều vô kể, chúng quyên tiền để đẩy các cố đạo nghèo kia đi cho rảnh;
tôi biết chúng muốn ǵ rồi, tôi biết đă từ lâu lắm'. Tôi hỏi: 'Thế là sao hả các
bạn, các bạn vẫn luôn ra khỏi nhà thờ với mối căm giận các linh mục như vậy ư?
Thế sao các bạn vẫn đi nhà thờ?' Một người đàn bà trả lời: 'Tại sao à? Chúng tôi
phải đi nếu không muốn mất tất cả, mất việc làm và mọi thứ, thế nên chúng tôi phải đi thôi'. Về sau tôi mới biết là
nếu đi nhà thờ th́ họ mới được một ít quyền lợi nhỏ mọn,
như được cấp chất đốt và một mảnh đất nhỏ để trồng
khoai, tất nhiên là họ phải trả tiền!"
Sau khi mô tả t́nh h́nh nghèo khổ, dốt nát của họ, ông bạn phóng viên của chúng
ta kết luận:
"Bây giờ tôi quả quyết rằng, t́nh cảnh của những người
ấy, sự nghèo khổ của họ, ḷng căm giận của họ với giáo hội, cái bề ngoài lễ phép
nhưng trong ḷng oán giận với các giáo sĩ, đều là
lệ thường ở các vùng nông thôn Anh, c̣n trường hợp
ngược lại chỉ là ngoại lệ".
Nếu ở Anh, từ "nông dân" cho ta thấy sự tồn tại của giai cấp vô sản nông nghiệp
đông đảo, cùng với chế độ sở hữu ruộng đất lớn, và những hậu quả của nó tại các
vùng nông thôn; th́ ở Wales, ta thấy sự suy sụp của các tá điền nhỏ. Nếu nông
thôn Anh tái diễn sự đối kháng giữa vô sản và tư bản, th́ t́nh cảnh nông dân
Wales phù hợp với sự phá sản không ngừng của giai cấp tiểu tư sản thành thị.
Phần lớn nông dân Wales là tá điền nhỏ; họ không thể bán những sản phẩm của ḿnh
với giá rẻ như các chủ trang trại lớn và giàu có ở Anh, là những đối thủ cạnh
tranh của họ. Hơn nữa, đất đai ở nhiều nơi của Wales chỉ phù hợp với nghề chăn
nuôi, vốn có lợi nhuận thấp; và nông dân Wales, do thấm đẫm bản tính cô độc của
dân tộc ḿnh, nên bảo thủ hơn nhiều so với các chủ trang trại người Anh. Nhưng
trên hết là sự cạnh tranh giữa họ với nhau và với những người Anh láng giềng, từ
đó mà địa tô tăng lên, đă khiến nông dân Wales phá sản đến mức khó sống nổi; và
v́ không nh́n ra nguyên nhân thực sự của t́nh cảnh đau khổ của ḿnh, nên họ lại
đổ cho đủ thứ lí do lặt vặt, như thuế cầu đường quá cao, v.v. Đương nhiên, cái
đó cũng trở ngại cho sự phát triển của nông thương nghiệp, nhưng v́ ai thuê
ruộng đất cũng đă tính khoản thuế ấy vào chi phí cố định, nên nó rút cục là do
địa chủ trả. Ngoài ra, các tá điền ở đây cũng hết sức căm giận đạo luật mới về
người nghèo, v́ họ luôn có nguy cơ rơi vào tay nó. Tháng Hai 1843, nỗi bất b́nh
của nông dân Wales đă bùng nổ thành "cuộc nổi loạn Rebecca" nổi tiếng. Đàn ông
cải trang làm phụ nữ, bôi nhọ mặt, họp thành những toán vũ trang đông đảo, lao
tới các cổng thu thuế của các đồn biên pḥng Anh, đập vỡ các cổng này trong
tiếng reo ḥ và tiếng súng, phá hủy những trạm thu thuế, viết thư đe dọa kí tên
"Rebecca", thậm chí đă một lần tấn công vào nhà tế bần Carmarthen. Về sau, khi
quân đội đến và cảnh sát được tăng cường, th́ nông dân đánh lạc hướng chúng một
cách rất khôn khéo; trong khi họ phá cổng ở chỗ này, th́ quân đội bị nhử theo
tiếng tù và vang khắp các ngọn đồi xung quanh, do đó mà tiến sang chỗ khác. Cuối
cùng, khi quân đội đến quá đông, nông dân bèn phóng hỏa và cả mưu sát, do từng
cá nhân thực hiện. Cũng như mọi khi, những hành động phạm pháp lớn ấy đánh dấu
sự chấm dứt của phong trào. Một số người v́ không đồng ư với cách làm ấy, một số
khác v́ sợ hăi, đă rút khỏi phong trào; t́nh h́nh tự nhiên lại yên tĩnh. Chính
phủ cử một ủy ban tới điều tra sự việc và nguyên nhân của nó, thế là mọi thứ kết thúc.
Nhưng nông dân vẫn nghèo khổ, và v́ trong quan hệ xă hội hiện nay, sự nghèo khổ chỉ
có thể tăng chứ không giảm,
nên thế nào cũng có lúc sẽ xảy ra những biến động nghiêm trọng hơn cuộc
hóa trang Rebecca khôi hài kia.
Nếu ở Anh ta đă thấy kết quả của chế độ kinh doanh lớn, c̣n ở Wales là kết quả của chế độ lĩnh canh nhỏ, th́ ở
Ireland là kết quả của chế độ chia nhỏ ruộng đất. Hầu hết cư dân Ireland
là tá điền nhỏ, họ ở trong một túp lều tồi tàn bằng đất sét trộn rơm, chỉ có một
pḥng; và thuê một mảnh đất nhỏ trồng khoai tây, nó chỉ bảo đảm cho họ có đủ
thức ăn để sống qua mùa đông. Do cạnh tranh kịch liệt giữa các tá điền nhỏ, địa
tô đă lên tới mức cao chưa từng thấy, gấp 2-3, thậm chí bốn lần so với ở Anh; v́
công nhân nông nghiệp nào cũng muốn làm tá điền, nên dù ruộng đất đă bị chia rất
nhỏ, vẫn có rất nhiều người tranh nhau thuê. Dù ở Đại Britain có 32 triệu acre
đất canh tác, mà Ireland chỉ có 14 triệu; dù ở Đại Britain, giá trị sản xuất nông nghiệp mỗi năm là 150
triệu Bảng, mà Ireland chỉ có 36 triệu; nhưng số công nhân nông nghiệp ở Ireland lại
nhiều hơn Đại Britain 75.0005*.
Sự không tương ứng khác thường ấy đủ chứng tỏ rằng cạnh tranh về ruộng đất ở
Ireland kịch liệt thế nào, nhất là khi chú ư rằng đời sống công nhân nông nghiệp
Anh cũng đă vô cùng nghèo khổ. Hậu quả tất yếu của cạnh tranh là địa tô cao, đến
nỗi đời sống của tá điền không thể cao hơn là mấy so với công nhân nông nghiệp.
Vậy, nhân dân Ireland bị trói buộc vào cảnh nghèo khổ thê thảm, mà trong khuôn
khổ quan hệ xă hội hiện tại, họ khó ḷng thoát khỏi. Họ sống trong những túp lều
bằng đất sét rất tồi tàn, cùng lắm chỉ đáng cho súc vật ở, và phải vất vả lắm
mới sống qua được mùa đông; hoặc như báo cáo trên đă nói: mỗi năm, họ có khoai
tây để ăn lửng dạ trong 30 tuần, 22 tuần c̣n lại th́ chẳng có ǵ. Đến mùa xuân,
khi khoai dự trữ đă hết, hoặc đă mọc mầm nên không ăn được, người vợ bèn dắt con
và xách ấm nước đi ăn xin khắp nơi; c̣n người chồng, sau khi trồng khoai vụ mới
xong, th́ đi t́m việc làm ở nơi khác hoặc ở Anh, đến vụ dỡ khoai mới về với gia
đ́nh. 9/10 cư dân nông thôn Ireland sống như thế đấy. Họ nghèo rớt mùng tơi, cực
ḱ rách rưới, và ở tŕnh độ phát triển thấp nhất, chỉ có thể có ở một nước nửa
văn minh. Theo báo cáo trích dẫn ở trên, trong 8,5 triệu cư dân, có 585 ngh́n
chủ gia đ́nh sống trong cảnh nghèo khổ hoàn toàn (destitution); c̣n theo những tài liệu khác, được tỉnh trưởng
Alison
dẫn ra6*, th́ ở Ireland có
2,3 triệu người phải sống nhờ cứu tế của xă hội hoặc tư nhân; nói cách khác, có
27% cư dân bị bần cùng!
Nguyên nhân của sự bần cùng ấy là ở các quan hệ xă hội hiện tại, nhất là
cạnh tranh; nó tồn tại ở đây dưới một h́nh thức khác, đó là việc chia nhỏ ruộng
đất. Người ta đă từng cố t́m những nguyên nhân khác. Có ư kiến rằng nó nằm ở
quan hệ giữa tá điền và địa chủ: địa chủ cho tá điền lớn thuê các mảnh đất lớn,
tá điền lớn chia đất ấy cho các tá điền nhỏ, rồi tá điền nhỏ hơn, v.v.; đến nỗi
giữa địa chủ và người thực tế canh tác thường có tới chục người trung gian. Có
người cho rằng nguyên nhân của bần cùng là cái đạo luật ô nhục, theo đó th́ khi
tá điền lớn không nộp địa tô, địa chủ có quyền đuổi người thực tế canh tác, dù
người đó đă nộp địa tô cho tá điền của anh ta. Nhưng các điều ấy chỉ quyết định h́nh thức
của sự nghèo khổ mà thôi. Nếu anh tá điền nhỏ biến thành chúa đất th́ sao? Dù
không phải nộp địa tô, th́ đa số họ cũng không thể sống nhờ vào mảnh đất nhỏ của
ḿnh; và nếu t́nh h́nh có khá lên chút ít, th́ vài năm sau, nó sẽ trở lại như
cũ, do dân số tăng nhanh. Những người sống trong điều kiện tốt sẽ nuôi nấng được
con cái họ, những đứa trẻ mà ngày nay đang chết yểu do nghèo đói. Lại có người
nói rằng, sự bần cùng là do ách áp bức vô sỉ của thực dân Anh. Cố nhiên cái đó
có thể làm cho nạn bần cùng đến nhanh hơn,
nhưng vẫn không phải là nguyên nhân của bần cùng. C̣n có quan điểm rằng nạn
nghèo đói là do giáo hội quốc giáo Tin lành, nhưng nếu đem chia cho nhân dân
Ireland những thứ mà giáo hội quốc giáo đă lấy của họ, th́ mỗi người không
được nổi sáu shilling; rồi th́ do thuế thập phân, nhưng thuế này không nhằm vào các
tá điền (dù họ là người nộp thuế), mà nhằm vào
kẻ sở hữu ruộng đất. Ngày nay, sau khi có luật hoán nạp
năm 1838, chúa đất phải tự nộp thuế thập phân, nhưng y lại tăng địa tô lên tương
ứng, nên t́nh cảnh của tá điền cũng chẳng khá hơn. Ngoài ra c̣n hàng trăm nguyên
nhân khác thuộc loại đó, nhưng đều không chứng minh được ǵ hơn; sự bần cùng này
là do các quan hệ xă hội hiện tại mà có, ngoài ra th́ mọi cái khác chỉ là nguyên
nhân của một h́nh thức nào đó của nó, chứ không phải của bản thân nó. Nếu ở
Ireland, sự nghèo khổ biểu hiện ra dưới h́nh thức đó chứ không phải h́nh thức
khác, th́ là do tính cách và sự phát triển lịch sử của dân tộc. Về tính cách
chung th́ người Ireland gần với các dân tộc Latin, như người Pháp, nhất là người
Ư. Về mặt xấu của họ, ta đă thấy qua mô tả của Carlyle. Giờ hăy nghe
một người Ireland; ít ra ông ta cũng
chính xác hơn Carlyle, là người quá thích thú đặc tính Germania:
"Họ hiếu động nhưng biếng nhác (indolent),
sáng ư nhưng thiếu tế nhị; mănh liệt, không kiên tŕ, không nh́n xa; họ
có bản năng dũng cảm, rộng lượng mà không tính toán, bị sỉ nhục th́ lập tức báo
thù hoặc tha thứ; kết bạn nhanh, tuyệt giao cũng nhanh; rất nhiều tài năng
nhưng suy xét th́ kém"7*
Ở người Ireland, cảm xúc và nhiệt t́nh chiếm ưu thế so với lí trí. Bản tính dễ
xúc động làm cho họ khó có thể suy nghĩ chín chắn, và thực hiện những hoạt động
b́nh tĩnh và kiên nhẫn. V́ thế, họ hoàn toàn không phù hợp với h́nh thức hiện
nay của lao động công nghiệp; vậy nên người Ireland vẫn cứ chuyên về nông
nghiệp, và cả trong ngành này, họ cũng ở tŕnh độ thấp nhất. V́ những mảnh đất
nhỏ ở đây đă có từ rất xưa,
chứ không phải do người ta chia cắt từ các lănh địa lớn, như ở
Pháp hay vùng Rhein8*, nên không
thể nghĩ đến chuyện đầu tư cải tạo đất. Theo Alison th́ phải đầu tư 120 triệu
Bảng, mới có thể đưa ruộng đất Ireland đạt tới năng suất của ruộng đất Anh, vốn
cũng không cao cho lắm. Dân di cư Anh lẽ ra có thể nâng cao tŕnh độ văn hóa của
người Ireland, th́ chỉ lo bóc lột họ một cách cực ḱ tàn khốc; c̣n dân di cư Ireland đă
đem tới cho người Anh một chất men, sau này sẽ có tác dụng; Ireland gần như
chẳng có ǵ đáng biết ơn dân di cư Anh cả.
Những cố gắng của người Ireland để thoát khỏi t́nh trạng suy tàn hiện
nay, một mặt biểu hiện bằng những hành động tội phạm, và nó đă trở thành chyện
hàng ngày tại các vùng nông nghiệp, nhất là miền Nam và miền Tây, chủ yếu là
việc giết hại các kẻ thù trực tiếp: bọn đại diện và tay sai trung thành của địa
chủ, bọn tín đồ Tin lành, bọn tá điền lớn (chúng có được ruộng đất nhờ việc đoạt
lấy những mảnh đất nhỏ trồng khoai của hàng trăm gia đ́nh), v.v.; mặt khác bằng
việc cổ động chống sự hợp nhất với Đại Britain. Qua đó có thể thấy rơ rằng những
người Ireland không được giáo dục ấy tất yếu phải coi người Anh là kẻ thù trực
tiếp của ḿnh, và với họ, bước tiến thứ nhất là giành độc lập dân tộc. Nhưng ta
cũng thấy rất rơ rằng, việc chống lại sự hợp nhất hoàn toàn không giúp xóa bỏ
nạn bần cùng, mà chỉ cho thấy rằng: phải t́m nguyên nhân của nghèo khổ ở ngay
trong nước, chứ không phải từ bên ngoài, như người ta nghĩ hiện nay. Nhưng ở đây
tôi không xét đến vấn đề sau: việc giành độc lập cho Ireland có phải là cần
thiết để giúp người Ireland hiểu được điều nói trên? Đến nay, cả phong trào Hiến
chương và chủ nghĩa xă hội đều không có thành quả đặc
biệt ǵ ở Ireland.
Tôi kết thúc những nhận xét của ḿnh về Ireland ở đây; hơn nữa, việc cổ
động chống sự hợp nhất năm 1843, và vụ
án O'Connell, đă làm cho người Đức ngày càng hiểu rơ t́nh cảnh nghèo khổ của nước này.
Vậy là ta đă xem xét t́nh cảnh giai cấp vô sản ở các đảo Britain theo
các ngành hoạt động của họ; ở đâu ta cũng thấy nghèo khổ, bần cùng, và những
điều kiện sinh sống hoàn toàn không xứng với con người. Ta đă thấy sự bất măn đă
nảy sinh và lớn lên cùng với giai cấp vô sản như thế nào, nó phát triển và tự tổ
chức ra sao; ta cũng thấy những cuộc đấu tranh công khai, có hoặc không đổ máu,
của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Ta đă nghiên cứu các nguyên lí quyết
định số phận, lo sợ và mong muốn của những người vô sản; và thấy rằng không có
chút hi vọng nào trong việc cải thiện t́nh cảnh của họ. Ta cũng đă có có dịp
quan sát thái độ của giai cấp tư sản với giai cấp vô sản qua hàng loạt dẫn
chứng, và thấy là giai cấp tư sản chỉ quan tâm đến bản thân ḿnh và lợi ích của riêng ḿnh. Nhưng
để khỏi bất công với
họ, ta cũng nên nghiên cứu hành
động của họ kĩ hơn một chút.
Chú thích
1* E. G. Wakefield, M.P. "Swing unmasked,
or the Cause of Rural Incendiarism". London. 1831 [Nghị sĩ E. G. Wakefield "Swing
bị vạch mặt, hay nguyên nhân của những vụ phóng hỏa ở nông thôn". London, 1831].
Sách mỏng. Những đoạn dẫn trên đây ở tr. 9-13; riêng các đoạn trong nguyên bản nói về đạo luật cũ về người nghèo (bấy giờ hăy c̣n tồn tại) đă được bỏ đi.
2 "ta thích thế đấy" (Chú thích của người dịch).
3 "chúa đất" (Chú thích của người dịch).
4 Tiếng Anh là The Whistler at the Plough, đây là bút danh của Alexander Somerville (1811-1885) (Chú thích của người dịch).
5* Báo cáo về Ireland của tiểu ban luật về người
nghèo, ở ḱ họp Nghị viện năm 1837.
6* "Những nguyên lí
về dân số", tập II.
7* "The State of Ireland".
London, 1807, 2nd edtion, 1821 ["T́nh cảnh Ireland. London, 1807, xuất bản
lần thứ hai, 1821"]. Sách mỏng.
8* (Năm 1892) Điều đó không đúng. Kinh
tế tiểu nông vẫn là h́nh thức chiếm ưu thế trong nông nghiệp từ thời trung cổ,
thế nên nó c̣n tồn tại
cho đến trước cách mạng. Cách mạng chỉ thay đổi
quyền sở hữu của h́nh thức ấy, bằng cách tước bỏ quyền
sở hữu của lănh chúa phong kiến và trao nó cho nông dân, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
(Chú thích của Engels cho lần xuất bản
bằng tiếng Đức năm 1892).
[Chương trước]
[Mục lục]
[Chương sau]