F. Engels
T́nh cảnh giai cấp công nhân Anh
THÁI ĐỘ CỦA GIAI CẤP TƯ SẢN VỚI GIAI CẤP VÔ SẢN
Giai cấp tư sản mà tôi nói đến ở đây bao gồm cả cái gọi là tầng lớp quí tộc; v́
nó là giai cấp có đặc quyền, là quí tộc, nhưng chỉ với giai cấp tư sản, chứ
không phải với giai cấp vô sản. Người vô sản coi cả hai loại ấy là giai cấp có
của, tức là tư sản. So với đặc quyền tài sản th́ mọi đặc quyền khác đều không
đáng kể. Cái khác nhau chỉ là: người tư sản, theo nghĩa hẹp, có quan hệ thực tiễn
với công nhân công xưởng và một bộ phận công nhân mỏ, với tư cách chủ trang trại
th́ có quan hệ với công nhân nông nghiệp; c̣n người quí tộc chỉ tiếp
xúc với một phần công nhân mỏ và công nhân nông
nghiệp.
Tôi chưa từng thấy giai cấp nào trụy lạc, hư hỏng v́ tư lợi tới mức vô
phương cứu chữa, mục nát từ bên trong và không sao tiến bộ được, như giai cấp tư
sản Anh; tôi đặc biệt muốn nói đến giai cấp tư sản theo nghĩa hẹp, nhất là phái
tư sản tự do, thù địch với các đạo luật ngũ cốc. Với họ th́ trên thế giới, không
cái ǵ tồn tại mà không v́ tiền bạc, kể cả bản thân họ; họ sống chỉ để kiếm
tiền, họ không biết đến hạnh phúc nào ngoài việc mau chóng phát tài, và
không có ǵ đau khổ hơn việc bị mất tiền1*.
Với cái tính tham tiền đến thế th́ không hoạt động nào của tâm hồn con người c̣n
trong trắng được. Thực ra, những người tư sản Anh này đều là người chồng, người
cha tốt, họ cũng có mọi thứ đạo đức cá nhân; trong giao tiếp thông thường, họ
cũng đáng kính và lịch sự, như mọi người tư sản khác; trong việc buôn bán, thậm
chí họ c̣n khá hơn người Đức, họ không so đo c̣ kè như các thương nhân nước ta,
nhưng thế th́ sao? Xét cho cùng th́ nhân tố quyết định duy nhất vẫn là lợi ích
cá nhân, đặc biệt là ḷng thèm khát kiếm tiền. Một lần, tôi đi cùng một người tư
sản như thế trên đường phố Manchester, tôi nói với y về lối kiến trúc tồi tệ,
mất vệ sinh; về t́nh h́nh ghê tởm của các khu lao động, và rằng tôi chưa từng
thấy thành phố nào xây dựng tồi như vậy. Y lắng nghe tất cả, khi đến chỗ góc phố
từ biệt tôi, y nói: "and yet there is a great deal of money made here" ("nhưng
dù sao ở đây người ta cũng kiếm được rất nhiều tiền")! Người tư sản Anh không
cần biết công nhân của ḿnh có chết đói hay không, miễn là bản thân họ kiếm được
tiền. Mọi quan hệ trong đời sống đều đo bằng tiền bạc; việc ǵ không kiếm ra
tiền đều là ngu dại, ảo tưởng, không thực tế. Thế nên kinh tế chính trị học,
khoa học về việc kiếm tiền, là môn học mà các thương nhân ấy ưa thích. Mỗi người
trong họ là một nhà kinh tế chính trị. Quan hệ giữa chủ xưởng với công nhân
không c̣n chút nhân tính nào, nó chỉ là quan hệ thuần túy kinh tế. Chủ xưởng là
"tư bản", công nhân là "lao động". Và khi công nhân không muốn bị giam trong cái
khái niệm trừu tượng ấy, khi anh ta cho rằng ḿnh không phải là "lao động", mà
là con người; con người ấy sở hữu sức lao động, cùng với các đặc điểm khác; khi
công nhân cho rằng ḿnh không thể bị coi là "lao động", một thứ hàng hóa để mua
bán trên thị trường, th́ người tư sản lúng túng. Y không thể hiểu là giữa ḿnh
với công nhân c̣n có quan hệ ǵ ngoài mua bán, y không coi họ là người, mà là những "cánh
tay" (hand), và y thường xưng hô với công nhân của ḿnh như thế;
đúng như Carlyle nói, ngoài sự giao
dịch bằng tiền mặt ra, y không thừa nhận quan hệ nào
khác giữa người với người. Thậm chí đến cả quan hệ giữa y với vợ th́ 99% cũng
chỉ là "trả tiền mặt". Giai cấp tư sản là nô lệ khốn khổ của đồng tiền, và v́
giai cấp tư sản đang thống trị, nên điều đó được thể hiện cả trong ngôn ngữ.
Tiền bạc xác định giá trị của con người: "người này trị giá một vạn Bảng" (he is
worth ten thousand pounds), nghĩa là: người này có chừng ấy tiền. Ai có tiền là
"đáng kính", là "loại người thượng đẳng" (the better sort of people), là "có thế
lực" (influential); và tiếng nói của y có trọng lượng trong giới của ḿnh. Chất
con buôn thấm vào toàn bộ ngôn ngữ, mọi quan hệ đều được biểu hiện bằng các
thuật ngữ thương mại và khái niệm kinh tế. "Cung và cầu" (supply and demand) là
công thức logic mà người tư sản Anh dùng để phán đoán toàn bộ đời sống con
người. Do đó mà mọi mặt trong xă hội đều là tự do cạnh tranh; do đó mà chế độ laissez faire,
laissez aller2 đang chi phối
những ngành hành chính, y tế, giáo dục, và có lẽ sẽ sớm thống trị cả tôn giáo,
v́ giáo hội quốc giáo đang ngày càng tan ră. Tự do cạnh tranh không muốn chịu
bất ḱ hạn chế và kiểm soát nào của nhà nước, nó coi toàn bộ nhà nước là một
gánh nặng; với nó th́ tốt nhất là không có nhà nước nào cả, khi đó mỗi người có
thể tùy ư bóc lột người khác; như trong cái "liên bang" mà Stirner đă tuyên
truyền. Nhưng giai cấp tư sản không thể không cần đến nhà nước, dù chỉ để kiềm
chế những người vô sản mà chúng rất cần; thế nên chúng dùng nhà nước để đối phó
với người vô sản, đồng thời cố đẩy nhà nước ra xa ḿnh.
Nhưng đừng tin là người Anh "có học" sẽ công khai thừa nhận ḷng ích kỉ
ấy. Trái lại, họ che đậy nó bằng cái mặt nạ đạo đức giả hèn hạ nhất. Cái ǵ?
Những người Anh giàu có không quan tâm tới người nghèo ư? Họ đă lập ra những cơ
quan từ thiện đấy thôi, mà các nước khác làm ǵ có? À vâng, những cơ quan từ
thiện! Làm như là người vô sản sẽ thấy dễ chịu, khi các người đă hút máu họ, rồi
sau đó cho họ chút ơn huệ trong việc từ thiện, để tâm hồn đạo đức giả tự măn của
các người cảm thấy yên vui; và các người tự phô bày trước thiên hạ như là đại ân
nhân của nhân loại, v́ các người đă trả lại cho người bị bóc lột 1% cái họ đáng
được hưởng! Kiểu từ thiện ấy khiến người cho c̣n mất nhân cách hơn cả người
nhận, nó làm cho người vốn bị áp bức lại càng bị áp bức; nó đ̣i những người cùng
khổ, bị xă hội ruồng bỏ và đă mất tính cách con người, phải từ bỏ vật cuối
cùng của họ, đó là danh hiệu "con người"; và trước khi
ban cho một vật làm phúc, để đánh dấu ấn nhục nhă lên trán người nghèo, nó c̣n bắt
người ấy phải qú gối cầu xin! Nhưng
tất cả những cái ấy là để làm ǵ? Hăy nghe chính giai cấp tư sản Anh nói. Cách
đây gần một năm, trên tờ "Manchester Guardian", tôi đọc thấy bức thư sau đây gửi
tổng biên tập; nó được coi là
hoàn toàn tự nhiên, hợp lí, và đă được đăng mà không cần b́nh luận ǵ:
"Thưa ngài tổng biên tập!
Gần đây, trên các phố lớn của thành phố chúng ta, đă xuất hiện nhiều
người ăn mày; khi th́ họ dùng quần áo tả tơi và h́nh dáng ốm đau, khi th́ họ phô
ra những vết thương và dị tật ghê tởm; với những cách thức đê tiện và chướng mắt
ấy, họ cầu xin ḷng thương hại của người qua đường. Tôi cho là khi đă nộp thuế
trợ giúp người nghèo, hơn nữa c̣n quyên góp nhiều cho các hội từ thiện, th́
người ta có quyền không phải nh́n thấy những sự quấy rầy bực ḿnh và vô lễ ấy.
Nếu cảnh sát thành phố thậm chí không thể bảo đảm cho chúng tôi được yên tĩnh đi
lại trên đường, th́ chúng tôi c̣n nộp bao nhiêu thuế để nuôi họ làm ǵ? Tôi hi
vọng rằng sau khi bức thư này được đăng trên tờ báo có nhiều độc giả như của ngài, th́ có
thể khiến chính quyền t́m cách trừ bỏ cái tệ nạn (nuisance) ấy.
Vĩnh viễn trung thành với ngài.
Một quí bà"
Các bạn xem! Giai cấp tư sản Anh làm từ thiện là v́ lợi ích
của riêng ḿnh; họ không cho không cái ǵ cả, họ coi sự bố thí
của ḿnh là một việc mua bán. Họ mặc cả với người nghèo rằng: "ta tiêu bao
nhiêu tiền cho việc từ thiện, vậy là ta
đă mua cái quyền không bị các ngươi quấy rầy nữa; các ngươi phải
ở trong ổ chuột tối om của ḿnh, không được bộc lộ sự bần cùng của ḿnh để kích
thích hệ thần kinh nhạy cảm của ta! Các ngươi cứ tuyệt vọng như trước đi, nhưng
phải tuyệt vọng trong âm thầm; đó là cái ta đ̣i hỏi, đó là điều ta mua, bằng
cách quyên góp cho bệnh viện 20 Bảng!" Ôi, sự từ thiện bỉ ổi của nhà tư sản
Thiên chúa giáo! "Một
quí bà" viết như vậy đó! Đúng, chính là một quí bà! Bà ta kí tên như
vậy là xác đáng. May mà bà ta không có can đảm để tự xưng
là một người đàn bà! Nếu các "quí bà" mà như thế,
th́ các "quí ông" phải như thế nào? Người ta sẽ nói rằng đó là một trường hợp cá
biệt. Không, nó biểu hiện đúng quan điểm của hầu hết giai cấp tư sản Anh, nếu
không th́ ban biên tập đă không đăng nó lên báo, hoặc là sau khi nó được đăng
th́ phải có phản hồi; tôi đă t́m ở các số báo sau mà không thấy
ǵ cả. Về hiệu quả của sự nghiệp từ thiện, th́ chính thầy tu Parkinson
đă nói rằng, người nghèo được sự giúp đỡ của bạn cùng cảnh ngộ nhiều hơn hẳn so
với của giai cấp tư sản. Người vô sản trung thực hiểu rơ thế nào là đói rét, nên
dù ḿnh cũng không đủ ăn, nhưng vẫn vui ḷng hi sinh bản thân để giúp người
khác, sự giúp đỡ ấy có ư nghĩa khác hẳn với sự bố thí của người tư sản xa hoa.
Về các mặt khác, giai cấp tư sản cũng giả bộ từ bi, nhưng chỉ khi tư lợi
của họ đ̣i hỏi. Trong chính trị và kinh tế chính trị, họ đă làm như thế đấy.
Suốt 5 năm nay, giai cấp tư sản vẫn ra sức chứng minh với công nhân rằng: họ
muốn xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc, chỉ v́ lợi ích của giai cấp vô sản. Nhưng vấn
đề thực ra là thế này: các đạo luật ngũ cốc làm cho giá lúa ḿ ở Anh cao hơn so
với ở nước ngoài, và tiền lương cũng cao hơn, thế nên các chủ xưởng Anh khó cạnh
tranh với ngoại quốc, nơi có giá lúa ḿ và tiền lương rẻ hơn. Nếu xóa bỏ các đạo
luật ngũ cốc th́ giá lúa ḿ sẽ giảm, và tiền lương sẽ gần với mức của các nước
văn minh khác ở châu Âu. Cái đó rơ ràng là do các qui luật về tiền lương, đă nói
tới ở trên. Chủ xưởng sẽ dễ cạnh tranh hơn, nhu cầu về hàng hóa của Anh sẽ tăng,
và nhu cầu về thợ cũng sẽ tăng. Cố nhiên là do đó mà tiền lương cũng sẽ tăng một
chút, và công nhân thất nghiệp sẽ t́m được việc làm, nhưng việc đó sẽ kéo dài
bao lâu? "Nhân khẩu thừa" ở Anh, nhất là ở Ireland, đă gấp đôi nhu cầu thợ của
công nghiệp Anh; và sau vài năm, chút lợi nhuận từ việc xóa bỏ các đạo luật ngũ
cốc sẽ mất, cuộc khủng hoảng mới sẽ đến, rồi ta sẽ quay về chỗ cũ, v́ sự kích
thích đầu tiên với công nghiệp cũng sẽ làm dân số tăng nhanh. Người vô sản thấy
rất rơ tất cả, họ nói thẳng vào mặt giai cấp tư sản cả trăm lần. Nhưng các chủ xưởng
chỉ thấy cái lợi trực tiếp mà việc xóa bỏ các đạo
luật ngũ cốc đem lại cho ḿnh; đầu óc hẹp ḥi của chúng
không hiểu là lợi ích đó sẽ
không được lâu dài, v́ cạnh tranh giữa các chủ xưởng sẽ
sớm kéo lợi nhuận của mỗi người xuống mức cũ; chúng vẫn gào lên với công nhân là
tất cả những cái đó đều chỉ v́ họ, chỉ v́ hàng triệu người đói khổ mà những
người giàu của Đảng tự do đă ném hàng trăm, hàng ngh́n Bảng vào quĩ của Đồng
minh chống đạo luật ngũ cốc. Nhưng ai cũng biết là chúng chỉ thả con săn sắt,
bắt con cá rô; chúng tính là chỉ vài năm sau khi xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc,
chúng có thể thu về gấp mười, gấp trăm lần. Nhưng công nhân không mắc lừa giai
cấp tư sản nữa, nhất là sau cuộc khởi nghĩa năm 1842. Họ yêu cầu: bất ḱ ai nói
là ḿnh quan tâm đến hạnh phúc của công nhân, hăy chứng minh thành ư ấy bằng
cách ủng hộ Hiến chương Nhân dân; vậy là công nhân phản đối mọi sự giúp đỡ từ
bên ngoài, v́ trong Hiến chương, họ chỉ đ̣i có đủ quyền lực để
tự giúp ḿnh. Nếu ai không làm thế th́ công nhân có đủ lí do để
tuyên chiến với người ấy, dù đó là kẻ thù công khai hay là người bạn giả dối.
Ngoài ra, để được công nhân ủng hộ, Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc đă dùng
những lời lừa bịp và dối trá hèn hạ nhất. Nó cố làm cho công nhân tin rằng giá
của lao động tỉ lệ nghịch với giá lúa ḿ, giá lúa ḿ thấp th́ tiền lương cao, và
ngược lại. Nó cố dùng những luận điểm phi lí nhất để chứng minh điều ấy, một
điều c̣n nực cười hơn bất ḱ thứ ǵ khác mà các nhà kinh tế học thốt ra. Khi
những cái ấy không có hiệu quả, th́ nó hứa hẹn với công nhân rằng: khi nhu cầu
về thợ tăng lên, th́ họ sẽ có được hạnh phúc lớn nhất. Thậm chí nó c̣n trơ
trẽn diễu hai mô h́nh bánh ḿ qua các phố, trên mô h́nh to viết: Bánh ḿ Mĩ 8 penny một cái, tiền lương mỗi ngày 4
shilling, và trên mô h́nh
nhỏ hơn nhiều th́ viết: Bánh ḿ Anh 8 penny một cái, tiền lương mỗi ngày 2 shilling. Nhưng công nhân
không mắc lừa: họ đă
hiểu quá rơ những người chủ của ḿnh.
Nhưng nếu muốn thấy thật rơ tính giả dối của những lời hứa tuyệt đẹp ấy,
th́ phải xem hành động thực tiễn. Ở trên, ta đă thấy giai cấp tư sản bóc lột
giai cấp vô sản bằng mọi cách như thế nào. Nhưng đó mới chỉ từng cá nhân tư sản,
mỗi người tự bóc lột công nhân của ḿnh. Giờ hăy xem giai cấp tư sản, với tư
cách chính đảng, thậm chí là chính quyền nhà nước, chống lại giai cấp vô sản như
thế nào. Trước hết, toàn bộ pháp luật là để bảo vệ người có của và chống kẻ
không có của, cái đó là hiển nhiên. Chỉ v́ có những kẻ không có của nên mới cần
có pháp luật; và dù điểm ấy chỉ được trực tiếp biểu hiện ở rất ít đạo luật, như
đạo luật chống những kẻ lang thang và không nhà cửa, coi giai cấp vô sản như bọn
ngoài ṿng pháp luật; nhưng sự thù địch với giai cấp vô sản vẫn là cơ sở vững
chắc của pháp lí, đến mức các quan ṭa, nhất là thẩm phán ḥa giải (mà chính họ
lại thuộc giai cấp tư sản), vốn tiếp xúc nhiều với giai cấp vô sản, th́ chẳng
cần suy nghĩ mấy cũng nhận thấy ư nghĩa ấy của pháp luật. Nếu người giàu được
gọi, đúng hơn là được mời đến ṭa án, th́ quan ṭa tỏ ra rất tiếc v́ phải làm
phiền y, và cố xoay xở vụ kiện theo hướng có lợi cho y; nếu phải xử tội y th́
quan ṭa rất áy náy, v.v.; kết quả là một khoản tiền phạt bé tí, mà người tư sản
ném lên bàn một cách ngạo mạn rồi bỏ đi. Nhưng nếu một người nghèo bị gọi tới
thẩm phán ḥa giải, th́ anh ta hầu như luôn bị bắt giữ từ đêm hôm trước, phải ở
trong nhà giam với nhiều người cùng cảnh ngộ; ngay từ đầu, anh ta đă bị coi là
có tội, bị chửi mắng, mọi lời biện hộ của anh ta đều bị gạt đi bằng một câu
khinh miệt: "Thôi! Chúng tôi biết rồi!" Và anh ta bị phạt, nhưng không có tiền
nộp phạt, nên phải ở tù một vài tháng để đền tội. Và dù không thể bị gán cho bất
ḱ tội ǵ, th́ anh ta vẫn phải ở tù, v́ là "kẻ bịp bợm và lang thang" (a rogue
and a vagabond; hai từ này hầu như luôn đi cùng nhau). Sự thiên vị của các thẩm
phán ḥa giải, nhất là ở nông thôn, th́ quả là không tưởng tượng nổi; việc đó
xảy ra hàng ngày, đến nỗi mà những vụ không quá trắng trợn th́ đều được lên báo
một cách thản nhiên, không có b́nh luận ǵ. Nhưng đừng mong có cách ǵ khác. Một
mặt, những "Dogberry" ấy chỉ giải thích pháp luật theo ư muốn của họ; mặt khác,
chính họ cũng là tư sản, họ thấy lợi ích của giai cấp ḿnh là cơ sở chủ yếu của
mọi trật tự chân chính. Cách cư xử của cảnh sát th́ cũng như thẩm phán ḥa giải.
Dù người tư sản làm ǵ th́ cảnh sát vẫn lễ phép với y và làm đúng theo luật,
nhưng họ lại thô bạo và tàn nhẫn với người vô sản; sự nghèo khổ đă làm cho anh
ta bị nghi ngờ về đủ thứ tội phạm, và c̣n lấy đi của anh ta những phương tiện
pháp lí, để đối phó với sự chuyên quyền của bọn thống trị. Thế nên với người vô
sản th́ pháp luật chẳng có tác dụng bảo vệ ǵ: cảnh sát có thể tùy ư vào nhà anh
ta, bắt bớ và đàn áp anh ta. Chỉ khi một hội công nhân mời được người bào chữa,
như công nhân mỏ đă mời Roberts, th́ người ta mới thấy rơ tác dụng bảo vệ của
pháp luật đối với người vô sản ít ỏi thế nào, và người vô sản thường
phải chịu mọi gánh nặng của pháp luật ra sao, trong khi không được hưởng chút lợi ích nào
của nó.
Đến nay, nhằm nô dịch giai cấp vô sản hơn nữa, giai cấp có của trong
nghị viện vẫn đấu tranh chống những t́nh cảm tốt của các nghị sĩ c̣n chưa ch́m
trong thế lực của tính ích kỉ. Các mảnh đất công lần lượt bị thu hồi và đem canh
tác, cái đó cố nhiên thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nhưng làm cho giai cấp vô
sản phải chịu thiệt hại nặng. Ở đâu c̣n đất công, người nghèo c̣n có thể thả
lừa, lợn, hoặc vài con ngỗng; trẻ em và thanh niên c̣n có thể tự do vui chơi
ngoài trời. Bây giờ đất công không c̣n, thu nhập của người nghèo bị giảm; bọn
trẻ mất chỗ vui chơi, chỉ c̣n cách vào tiệm rượu. Nghị viện mỗi lần họp đều
thông qua một loạt điều luật về việc khai khẩn đất công. Trong ḱ họp nghị viện
năm 1844, chính phủ quyết định bắt các công ti độc quyền đường sắt phải hạ giá
vé xe lửa xuống mức hợp lí là 1 penny mỗi dặm, để công nhân dễ dàng đi lại, do
đó đă đề nghị: trên mỗi tuyến đường hàng ngày, phải thêm một đoàn tàu hạng ba
với mức giá đó; th́ vị "cha cố tôn kính", giáo chủ London, lại đề nghị trừ ra
chủ nhật, ngày duy nhất mà công nhân có việc làm có thể đi đâu đó, nghĩa là vào
chủ nhật th́ chỉ người giàu mới được đi tàu, c̣n người nghèo th́ chịu. Tuy
nhiên, đề nghị đó lộ liễu và công khai quá, khiến người ta không thể thông qua,
thế nên nó bị bác bỏ. Những vụ tấn công ngấm ngầm vào quyền của giai cấp vô sản
th́ nhiều vô kể, đến mức ngay cả những việc xảy ra chỉ trong một ḱ họp nghị
viện, tôi cũng không đủ chỗ để liệt kê. Ở đây chỉ nêu thêm một vụ, cũng trong ḱ
họp năm 1844. Một nghị sĩ ít tiếng tăm, tên là Miles, đưa ra một dự luật điều
chỉnh quan hệ giữa chủ và tớ, dường như vô hại. Chính phủ chấp nhận và giao nó
cho một ủy ban xem xét. Khi đó, thợ mỏ miền Bắc đang băi công, và Roberts đang
có chuyến đi thắng lợi khắp nước Anh, cùng với các công nhân mà ông đă giúp
trắng án. Khi dự luật ấy được ủy ban trao lại, th́ nó đă có thêm mấy điều khoản
cực ḱ bạo ngược, nhất là cái này: người lao động nào đă cam kết (bằng miệng
hoặc giấy tờ) làm cho chủ xưởng việc ǵ, dù là tạm thời; nếu từ chối
làm việc, hoặc có những "hành vi không
tốt" (misbehaviour) khác, th́ chủ xưởng có thể đưa người ấy tới "bất
ḱ" (any) viên thẩm phán ḥa giải nào; viên thẩm phán này, căn cứ vào lời khai
có tuyên thệ của chủ xưởng hoặc người đại diện hay đốc công của chủ xưởng (tức
là lời khai của bên nguyên), có thể xử người lao động tới hai tháng tù khổ sai.
Dự luật ấy làm công nhân cực ḱ phẫn nộ, nhất là v́ cùng lúc đó, dự luật mười
giờ đă được tŕnh lên nghị viện, và đang được cổ động mạnh. Công nhân tổ chức
hàng trăm cuộc họp, gửi hàng trăm đơn thỉnh nguyện tới London cho đại biểu của
giai cấp vô sản ở nghị viện, đó là Thomas Duncombe. Ngoài đại biểu của đảng
"Nước Anh trẻ" là Ferrand, th́ Duncombe là nghị sĩ duy nhất quyết liệt phản đối
dự luật ấy. Nhưng khi những người cấp tiến khác thấy nhân dân chống lại nó, th́
họ lần lượt ḅ sang phía Duncombe, c̣n bọn tư sản tự do thấy công nhân phẫn nộ
th́ cũng không dám bảo vệ dự luật ấy; và v́ không ai dám chống lại toàn dân, nên
nó đă thất bại nhục nhă.
Nhưng sự tuyên chiến công khai nhất của giai cấp tư sản chống giai cấp vô
sản lại là thuyết nhân khẩu của Malthus, và
đạo luật mới về người nghèo, sinh
ra từ thuyết đó. Về thuyết của Malthus, ta đă nói đến vài lần. Hăy tóm tắt lại:
kết luận chủ yếu của nó là trên trái đất luôn có nhân khẩu thừa, thế nên luôn có
nghèo khổ, thiếu thốn, bần cùng và vô đạo đức; số phận và vận mệnh vĩnh cửu của
loài người là có mặt trên thế giới này quá nhiều, do đó mà họ chia thành những
giai cấp khác nhau; một số th́ giàu có, được giáo dục và có đạo đức; một số khác
th́ nghèo khổ, đói kém, ngu muội và thiếu đạo đức. Từ đó ta có kết luận thực
tiễn sau (chính Malthus đă đề ra như vậy): việc từ thiện và thuế trợ giúp người
nghèo thực ra không có nghĩa lí ǵ, v́ chúng chỉ duy tŕ và gia tăng "nhân khẩu
thừa", v́ sự cạnh tranh của họ mà tiền lương của những người khác bị giảm. Việc
các cơ quan trợ giúp tạo ra việc làm cho người nghèo cũng là vô nghĩa, v́ thị
trường chỉ tiêu thụ được một lượng sản phẩm nhất định, và khi một công nhân thất
nghiệp có việc làm, th́ một công nhân khác đang có việc làm sẽ phải thất nghiệp;
tức là hoạt động của các cơ quan trợ giúp người nghèo đang gây hại cho công
nghiệp tư nhân. Vậy, vấn đề không phải là nuôi sống "nhân khẩu thừa", mà là cố
sức giảm bớt nó. Malthus nói rơ: từ trước tới nay, người ta cho là mọi người đều
có quyền sống, có quyền có tư liệu sinh hoạt; điều đó hoàn toàn phi lí. Ông ta
trích lời một thi sĩ: "Người nghèo đến dự tiệc của thiên nhiên, nhưng không t́m
thấy bộ đồ ăn nào dành cho ḿnh", và nói thêm: thế là "thiên nhiên ra lệnh cho anh ta cút đi" (she bids
him to be gone), "v́ trước khi ra đời, anh ta không hỏi xem xă
hội có muốn tiếp nhận ḿnh hay không". Lí thuyết ấy giờ đă
được tất cả bọn tư sản Anh chính cống yêu thích, mà cũng rất dễ hiểu:
nó vô cùng tiện lợi cho họ, hơn nữa c̣n khá phù hợp với các quan hệ hiện tại.
Vấn đề không phải là sử
dụng "nhân khẩu thừa", biến họ thành người
có ích; mà chỉ là để họ chết đói bằng cách giản đơn nhất, và
không để họ đẻ nhiều con quá; việc này sẽ rất dễ dàng, nhưng c̣n cần một
điều kiện: cái "nhân
khẩu thừa" ấy phải thừa nhận ḿnh là thừa, và vui ḷng chịu chết đói. Nhưng việc này hiện
nay chưa có tiến triển ǵ, dù giai cấp tư sản nhân từ đă cố
làm cho công nhân tin vào các luận điệu kia. Trái lại, giai cấp vô sản quả quyết rằng: với
hai bàn tay chăm làm, họ mới là những người không thể thiếu; c̣n các
ngài tư bản giàu có, không làm lụng ǵ cả, mới là những người thừa.
Nhưng v́ người giàu nắm chính quyền, nên người vô sản đành nh́n pháp
luật tuyên bố rằng họ là "những người thừa" thực sự, dù họ không muốn tự công
nhận điều đó. Đạo luật mới về người nghèo chính là như thế. Đạo luật cũ về
người nghèo, dựa theo đạo luật năm 1601 (tức là năm 43 của triều Elizabeth), vẫn ngây
thơ xuất phát từ nguyên tắc rằng: chăm sóc người nghèo là trách nhiệm của cộng
đồng. Ai không có việc làm th́ đều được cứu tế, và tất nhiên là người nghèo dần
thấy rằng cộng đồng có nghĩa vụ không để họ chết đói. Họ coi việc nhận cứu tế
hàng tuần là quyền lợi chứ không phải là ân huệ; rút cuộc th́ cái đó đă làm cho
giai cấp tư sản chán ngấy. Năm 1833, giai cấp tư sản giành được chính quyền nhờ
cải cách tuyển cử, cùng lúc đó, sự nghèo khổ của các vùng nông nghiệp lên tới
tuyệt đỉnh; và nó lập tức bắt đầu sửa đổi đạo luật về người nghèo theo quan
điểm của ḿnh. Một tiểu ban được cử ra để điều tra việc trợ giúp người nghèo, và đă
phát hiện nhiều sự thực ghê người. Nó thấy rằng toàn bộ giai cấp công nhân ở các
vùng nông thôn đă trở thành dân nghèo, và đă ít nhiều dựa hẳn vào quĩ tế bần để
sống, v́ quĩ này sẽ cấp cho người nghèo chút phụ cấp khi
lương thấp. Nó thấy là chế độ này đang nuôi những người thất nghiệp,
giúp những người lương thấp và
đông con, bắt những người có con ngoài giá thú phải trả tiền nuôi dưỡng, nói chung là thừa
nhận quyền được bảo hộ
của người nghèo; và chế độ ấy đang làm đất nước phá sản:
"Một vật cản với công nghiệp, khuyến khích kết hôn bừa
băi, thúc đẩy sự tăng dân số, loại trừ ảnh hưởng của nhân khẩu tăng lên
tới tiền lương; nó
là một hệ thống toàn quốc nhằm gây chán nản cho những người chăm chỉ và lương thiện,
và bảo vệ những kẻ lười biếng, phóng đăng, nông nổi; nó
phá hoại quan hệ gia đ́nh, cản trở việc tích lũy tư
bản, làm hao phí tư bản hiện có, làm phá sản những người nộp thuế; ngoài
ra, nó c̣n qui định về việc trả tiền nuôi dưỡng, quả là khuyến
khích đẻ con ngoài giá thú" (trích báo cáo của tiểu ban luật về người
nghèo)3*
Về đại thể th́ nó đă mô tả đúng tác dụng của đạo luật cũ về người nghèo:
đó là khuyến khích sự lười biếng và giúp tăng nhân khẩu
"thừa". Trong những quan hệ xă hội hiện nay, rơ ràng là người nghèo buộc
phải trở nên ích kỉ, nếu có thể chọn giữa làm
việc và không làm ǵ, mà đều được sống như nhau, th́ dĩ nhiên là họ thích cái
thứ hai. Nhưng từ đó chỉ có thể kết luận rằng những quan hệ xă hội hiện
nay chẳng ra ǵ, chứ không thể nói như các ủy viên đồ đệ của Malthus, rằng
bần cùng là tội phạm, phải ngăn chặn nó bằng những thủ đoạn khủng khiếp.
Nhưng các đồ đệ thông minh ấy của Malthus quá tin rằng thuyết của ḿnh
là tuyệt đối đúng, đến nỗi họ không hề do dự ném người nghèo lên cái giường
Procrustes của thuyết này; và căn cứ vào nó mà đối xử hết sức tàn khốc với dân
nghèo. Cùng với Malthus và những người ủng hộ tự do cạnh tranh khác, họ tin rằng
tốt nhất là để mỗi người tự lo cho ḿnh, tức là triệt để thi hành nguyên tắc
laissez faire, thế nên họ muốn xóa bỏ toàn bộ các luật về người nghèo. Nhưng v́
không có can đảm và uy tín để làm thế, nên họ đưa ra một đạo luật về người nghèo
hết sức phù hợp với thuyết Malthus, và nó c̣n tàn ác hơn cả việc thực hiện
nguyên tắc laissez faire; v́ nguyên tắc ấy chỉ mang tính thụ động, c̣n đạo luật
mới về người nghèo là sự can thiệp chủ động. Ta đă thấy Malthus gọi người nghèo, nói đúng
hơn là gọi người thất nghiệp là "người thừa", coi họ là tội phạm,
và đ̣i dùng việc chết đói để trừng trị họ. Thật ra, các ủy viên của tiểu ban luật
về người nghèo chưa dă man đến thế; với họ, việc để người ta chết đói
trắng trợn như vậy cũng đáng sợ. Họ nói: "được,
lũ dân nghèo các ngươi có quyền sống, nhưng
chỉ có quyền sống thôi; các ngươi không có quyền sinh sôi nảy nở,
càng không có quyền sống như con người. Các ngươi là tai họa, dù chúng ta không thể tức khắc tiêu diệt
các ngươi, như tiêu diệt bất ḱ tai họa nào khác, th́ ít nhất tự các ngươi cũng
nên hiểu rằng ḿnh là tai họa; thế nên phải khống chế các ngươi, để các
ngươi không đẻ ra 'những người thừa'
khác, hoặc lôi kéo người ta vào con đường lười nhác và thất nghiệp, dù là trực tiếp hay gián tiếp.
Các ngươi cứ sống, nhưng chỉ để cảnh cáo những ai cũng có khả năng trở
thành 'người thừa' ".
Theo đó, chúng đưa ra đạo luật mới về người nghèo; năm 1834, nghị viện
đă thông qua nó, đến nay nó vẫn c̣n hiệu lực. Mọi sự cứu tế bằng tiền hoặc hiện
vật đều bị xóa bỏ; nó chỉ thừa nhận một h́nh thức cứu tế, đó là đưa người nghèo
vào các nhà tế bần có ở khắp nơi. Các nhà tế bần (workhouse) ấy, mà nhân dân
quen gọi là "ngục Bastille của người nghèo" (poor-law bastille), được lập nên để
gây sợ hăi cho bất ḱ ai vẫn c̣n chút hi vọng thoát khỏi việc phải sống nhờ vào
cái h́nh thức từ thiện xă hội duy nhất ấy. Để người nghèo chỉ đi xin cứu tế khi
nào cùng cực lắm, để bắt họ phải t́m hết cách rồi mới đi xin, người ta đă biến
nhà tế bần thành một nơi kinh tởm nhất, và bọn đồ đệ của Malthus phải trổ hết
tài nghệ mới nghĩ ra được. Thức ăn th́ tồi hơn cả thức ăn của công nhân nghèo
nhất, mà công việc lại nặng nhọc hơn; nếu không thế th́ công nhân sẽ thích vào
nhà tế bần hơn là sống cuộc đời khốn khổ ở ngoài. Thịt, nhất là thịt tươi, rất
ít có; chủ yếu là khoai, bánh ḿ loại tồi nhất và cháo yến mạch, bia th́ rất ít
hoặc không có. Thậm chí thức ăn trong tù c̣n khá hơn thế, vậy là người ở nhà tế
bần thường cố ư phạm tội để được vào tù. Thực ra, nhà tế bần cũng là một nhà tù:
ai không làm xong công việc được giao th́ không được ăn; ai muốn ra phố th́ phải
xin phép, nhưng được hay không th́ tùy vào hạnh kiểm của anh ta hoặc ư kiến của
giám thị; cấm hút thuốc lá, cấm nhận quà của họ hàng hoặc bạn bè ở ngoài. Người
nghèo phải mặc đồng phục của nhà tế bần, và phải hoàn toàn tuân theo sự chuyên
quyền của giám thị. Để lao động của người nghèo không cạnh tranh với công nghiệp
tư nhân, họ chỉ được giao các công việc vô ích: đàn ông th́ đập đá, mà phải đập
"bằng một người đàn ông khỏe mạnh làm việc khẩn trương"; đàn bà, trẻ em và người
già th́ tước các dây thừng cũ, để làm ǵ th́ tôi quên mất rồi. Để "người thừa"
không sinh nở thêm, và để cha mẹ "vô đạo đức" khỏi ảnh hưởng đến con, các gia
đ́nh đều bị tách ra: vợ, chồng, con cái mỗi người một nơi; thỉnh thoảng họ mới
được gặp nhau, vào thời gian qui định, và chỉ khi ban giám đốc thấy họ có
hạnh kiểm tốt. Để cái bệnh dịch nghèo đói trong những
ngục Bastille ấy bị cách li hẳn với thế giới bên ngoài, th́ nói chung, người ở
nhà tế bần chỉ được gặp người ngoài trong một pḥng tiếp khách đặc biệt,
và phải được ban giám đốc kiểm soát và cho phép.
Theo qui định th́ thức ăn phải vệ sinh và sự đối xử phải nhân đạo. Nhưng
tinh thần của đạo luật đă quá rơ, đến nỗi khó mà thực hiện qui định này. Các ủy
viên của tiểu ban luật về người nghèo, và cả giai cấp tư sản Anh, sẽ nhầm nếu
cho rằng có thể chỉ thực hiện nguyên tắc, mà vẫn tránh được các hậu quả tất yếu của nó.
Cách đối xử với người ở nhà tế bần, do
văn bản của đạo luật mới qui định, đă ngược hẳn
với toàn bộ tinh thần của nó. Khi mà về bản chất, đạo luật
coi người nghèo là tội phạm, coi nhà tế bần là nhà tù;
coi người ở nhà tế bần là kẻ ngoài ṿng pháp luật và nhân loại, là
hiện thân của sự ghê tởm; th́ mọi mệnh lệnh trái lại đều là vô dụng.
Trong thực tế, sự đối xử với người nghèo không tuân theo văn bản,
mà tuân theo tinh thần của đạo luật. Sau đây là mấy ví dụ.
Mùa hè 1843, có một bé trai năm tuổi trong nhà tế bần ở Greenwich, bị phạt giam
trong nhà xác suốt 3 đêm, và em phải ngủ trên nắp quan tài. Trong nhà tế bần ở
Herne có một bé gái cũng bị phạt như vậy, v́ đêm ngủ em đái
dầm. H́nh phạt này có vẻ rất phổ biến. Nhà tế bần ấy nằm tại
một vùng đẹp nhất của Kent, đặc biệt là mọi cửa sổ của nó đều mở vào phía sân
trong, gần đây mới có hai cửa sổ để người ở trong có thể
nh́n ra bên ngoài một chút. Một nhà báo đă kể lại việc ấy trên tờ
"Illuminated Magazine", và kết luận bài báo bằng những lời này:
"Nếu Chúa cũng trừng phạt con người v́ tội lỗi, như con người
trừng phạt con người v́ nghèo đói, th́ thật khốn khổ cho con cháu Adam!"
Tháng Mười một 1843, có một người chết ở Leicester, hai ngày sau khi ra khỏi nhà tế bần
Coventry. Sự đối xử với người nghèo ở đó thực đáng căm
phẫn. Người nói trên tên là George Robson, bị thương ở vai mà không hề được
chữa trị; người ta bắt anh bơm máy
nước bằng cánh tay lành, và chỉ được hưởng mức ăn thường của nhà
tế bần; cơ thể th́ kiệt sức v́ vết thương không lành được, nên anh không tiêu
hóa được thức ăn ấy; tất nhiên là anh ngày càng yếu đi, nhưng càng phàn nàn th́ càng
bị đối xử tàn tệ. Vợ anh định nhường
cho chồng phần bia ít ỏi của ḿnh th́ bị mắng chửi, và bị bắt
phải uống hết chỗ bia đó trước mặt tên nữ giám thị. Rồi Robson bị ốm, nhưng cũng
không được đối xử khá hơn. Sau cùng, theo yêu cầu của anh, hai vợ
chồng được thả; khi rời nhà tế bần, họ đă bị chửi mắng vô cùng tàn tệ.
Hai hôm sau th́ Robson chết ở Leicester. Theo lời bác sĩ khám nghiệm tử
thi, anh chết v́ vết thương không được chữa trị, và v́ không tiêu hóa
được thức ăn, do sức khoẻ suy yếu. Khi đă được thả, anh mới nhận được
mấy phong thư có tiền gửi cho ḿnh; chúng đă bị
giữ lại ở văn pḥng của nhà tế bần trong 6 tuần, và đă bị bóc ra để kiểm duyệt
theo nội qui ở đó! Trong nhà tế bần Birmingham
đă xảy ra những việc bỉ ổi, đến nỗi tháng Chạp 1843, cuối cùng người ta phải cử
một quan chức đến điều tra. Ông ta thấy bốn tramper (chúng tôi đă giải nghĩa
danh từ này ở trên) bị lột trần truồng, giam trong ngục tối (blackhole) ở gầm
cầu thang; họ đă ở đó 8-10 ngày, và thường bị đói; từ sáng tới trưa không được
ăn ǵ, mà đó là thời ḱ rét nhất trong năm. Có một em trai bị giam trong đủ loại
pḥng ở nhà tế bần ấy: đầu tiên là buồng kho xây h́nh ṿm, chật chội và ẩm thấp;
sau đó là hai lần trong ngục tối, lần thứ hai kéo dài ba ngày đêm; sau đó lại ở
trong ngục tối ấy, c̣n tồi tệ hơn lần thứ nhất, cũng kéo dài ba ngày đêm; và sau
cùng là buồng trọ dành cho người lang thang: đây là một cái hầm bẩn
thỉu, hôi thối kinh tởm, chỉ có một cái phản gỗ; vị quan chức
c̣n thấy hai bé trai khác, quần áo tả tơi, đang nằm co
quắp v́ rét: chúng đă ở đó
bốn ngày. Trong ngục tối thường có bẩy người, c̣n trong
buồng trọ là hai chục người. Phụ nữ cũng bị giam trong ngục tối v́
không chịu đi nhà thờ. Có một chị bị nhốt bốn ngày trong buồng trọ, có Chúa
biết là ở với ai, mà khi đó chị đang bị ốm và phải uống
thuốc! Một chị khác, dù trí tuệ lành mạnh, nhưng lại bị phạt đưa vào nhà thương
điên. Tháng Giêng 1844, cũng có cuộc điều tra tương tự, tại nhà tế bần Bacton
ở Suffolk; người ta thấy có một phụ nữ mất trí làm hộ lí, chị ta làm đủ tṛ ḱ
quái với bệnh nhân; ai hay làm ồn hoặc trở ḿnh ban đêm th́ bị trói vào giường
bằng dây thừng, để các hộ lí khỏi phải thức trông họ; đă có một người chết trong
khi bị trói như vậy. Trong nhà tế bần
St. Pancras ở London (từng được nêu tên ở phần trước, nơi đây người
ta may quần áo lót rẻ tiền), một người đàn ông mắc bệnh động kinh, đă bị chết ngạt trên
giường khi lên cơn, mà không ai đến cứu. Cũng ở đây, có 4-6, nhiều khi có 8
đứa bé nằm chung một giường. Trong nhà tế bần
Shoreditch ở London, có người phải nằm chung với một bệnh nhân đang sốt
mê man, trên một cái giường đầy rệp. Trong nhà tế bần Bethnal Green ở London, một chị có
thai sáu tháng không được vào bên trong, mà bị nhốt ngoài pḥng khách, cùng đứa con chưa
đầy hai tuổi, ở đó không có giường, không có chỗ đại tiểu
tiện; suốt từ 28 tháng Hai tới 20 tháng Ba 1844. Khi chồng chị
xin cho vợ ḿnh được thả, th́ anh bị giam trong ngục tối 24 giờ, chỉ được ăn bánh ḿ
với nước lă, v́ sự hỗn láo ấy của ḿnh. Tháng Chín 1844, tại nhà tế bần ở
Slough, gần Windsor, có một người sắp chết; vợ anh đến ngay Slough để
thăm chồng; chị tới nơi lúc mười hai giờ đêm, vội vă đến
nhà tế bần, nhưng không được vào; đến sáng hôm sau, chị
mới được gặp chồng trong nửa giờ, và luôn có một nữ giám thị ở đó,
cứ hết nửa giờ là bắt chị ra ngoài; mấy lần tiếp theo cũng thế.
Trong nhà tế bần ở Middleton, thuộc Lancashire,
có 12, nhiều khi là 18 người, cả nam lẫn nữ, ở trong một pḥng. Chỗ này không tuân
theo đạo luật mới về người nghèo,
mà tuân theo một đạo luật đặc biệt có từ trước (đạo luật Gilbert).
Tên giám đốc đă mở một xưởng nấu rượu bia của riêng y, ở ngay trong nhà tế bần.
Ngày 31 tháng Bẩy 1844 ở Stockport, một cụ già 72 tuổi, sống trong nhà tế bần, bị đưa
ra toà án ḥa giải v́ không chịu đập đá; cụ kêu rằng ḿnh già
quá, đầu gối đă cứng, không làm nổi việc ấy. Cụ đă cố xin được làm bất ḱ việc
ǵ khác, miễn là vừa sức; thế là cụ bị phạt hai tuần khổ sai trong
tù. Tháng Hai 1844, có cuộc điều tra ở nhà tế bần Basford,
người ta thấy khăn trải giường 13 tuần chưa thay, áo sơ-mi 4 tuần chưa thay, bít
tất từ 2-10 tháng chưa thay; đến nỗi trong 45 bé, chỉ 3 bé có bít tất, c̣n áo
sơ-mi của ai cũng rách nát. Giường th́ đầy rệp, bát đĩa th́ rửa trong thùng nước
bẩn. Ở nhà tế bần trong khu Tây London, có một người gác cửa bị giang mai, y đă
truyền bệnh cho bốn người con gái, mà không bị đuổi. Một người gác cổng khác
đă giấu một thiếu nữ câm điếc trên
giường ḿnh, và ngủ với em trong bốn ngày, mà cũng không bị đuổi.
Sống ra sao th́ chết như thế. Người
nghèo chết th́ được chôn hệt như súc vật chết. Nghĩa địa người nghèo
St. Bride ở London là một băi lầy trơ trụi, được dùng từ triều Charles
II, ngổn ngang những đống xương trắng. Cứ tới thứ tư th́ người nghèo chết trong
tuần bị ném xuống một cái hố sâu 14 foot, vị cố đạo đọc kinh vội vă, rồi người
ta lấp đất qua loa; tới thứ tư tuần sau, nó lại được đào lên để ném xác khác
xuống, tới khi nào không nhét thêm ai vào được nữa th́ thôi. Thế nên mùi hôi
thối của xác chết lan ra khắp vùng xung quanh. Ở Manchester, nghĩa địa người
nghèo nằm trên bờ sông Irk, đối diện với thành phố cũ; đó cũng là một băi hoang
vu, mấp mô. Cách đây hai năm người ta làm một đường xe lửa qua đó. Nếu là nghĩa
địa của các vị đáng tôn kính, th́ không biết giai cấp tư sản và các tăng lữ sẽ
kêu la đến thế nào về sự báng bổ ấy! Nhưng đây là nghĩa địa người nghèo, nơi an
nghỉ cuối cùng của kẻ bần cùng và "người thừa", nên không ai để ư. Thậm chí
những xác c̣n đang phân hủy cũng không được chuyển đi;
chỗ nào tiện là họ đào, đóng cọc thẳng xuống mồ mả mới;
thế là nước trào lên trên nền đất lầy, mang theo các chất thối rữa, khiến các vùng xung quanh
đầy mùi hôi hám, hại cho sức khỏe. Tôi không muốn kể tỉ mỉ về những
việc tàn bạo ghê gớm đă xảy ra hồi đó.
Có ǵ đáng ngạc nhiên khi người nghèo từ chối xin cứu tế xă hội trong
điều kiện như thế, khi họ thà chết đói c̣n hơn là phải vào những ngục Bastille
ấy? Tôi đă thấy năm trường hợp, người ta chọn cách chết đói theo đúng nghĩa của
từ này; hơn nữa, trước khi chết mấy hôm, khi cơ quan trợ giúp người nghèo từ
chối mọi h́nh thức cứu tế khác, trừ nhà tế bần, th́ họ thà chết chứ không vào
cái địa ngục ấy. Vậy, tiểu ban luật về người nghèo đă hoàn toàn đạt
được mục tiêu của ḿnh. Nhưng các nhà tế bần ấy cũng vượt xa mọi chính sách khác
của nhà cầm quyền, trong việc tăng thêm ḷng căm thù của giai cấp vô sản với
giai cấp có của, mà phần đông trong số chúng đang hân hoan với đạo luật mới về
người nghèo. Từ Newcastle tới Dover, công nhân đều nhất trí cất lên tiếng thét
căm thù nó. Với đạo luật đó, giai cấp tư sản đă tuyên bố rơ ràng quan điểm của chúng về
các nghĩa vụ mà chúng phải làm với giai cấp vô sản, đến nỗi ngay cả những ai
ngu dốt nhất cũng nh́n ra. Chưa bao giờ chúng phát biểu
trắng trợn đến thế, rằng người vô sản sống trên đời chỉ là để bị
bóc lột; và khi nào người có của không cần đến họ nữa, th́ họ cứ việc chết
đói. Chính v́ thế mà đạo luật mới về người nghèo đă góp phần phát triển mạnh phong trào
công nhân, nhất là phong trào Hiến chương; và v́ đạo luật này được áp dụng nhiều
nhất trong nông thôn, nên nó càng giúp đẩy mạnh phong trào vô sản ở các vùng nông nghiệp.
Xin nói thêm rằng từ năm 1838, ở Ireland cũng
có đạo luật tương tự, cũng dự kiến xây những nhà tế bần như
thế cho 8 vạn dân nghèo, và người dân cũng căm thù đạo luật ấy; nếu nó
cũng có ư nghĩa như đạo luật ở Anh, th́ nó sẽ càng bị ghét bỏ. Nhưng
trong một nước có tới 2,5 triệu người vô sản, mà hành hạ 8 vạn người, th́
đă thấm vào đâu? Ở Scotland không có đạo luật về người nghèo, trừ vài địa phương cá biệt.
Tôi hi vọng là sau bản miêu tả ấy về đạo luật
mới về người nghèo, và các hậu quả của nó, th́ tôi sẽ không c̣n bị xem là quá khắt khe
với giai cấp tư sản Anh. Bằng chính sách đó,
nó đă hành động in corpore4,
với tư cách nhà cầm quyền, đă nói rơ ḿnh thực sự muốn ǵ; và làm sáng tỏ
sự thù địch ẩn sau những hành vi tồi tệ mà giai cấp vô sản đă luôn phải
chịu, những hành vi thường bị đổ lỗi cho từng cá nhân tư sản. Chính
sách ấy không phải là của một nhóm nào trong giai cấp tư sản, mà nó đă được toàn bộ
giai cấp ấy tán thành, cuộc tranh luận ở nghị viện năm 1844 đă chứng
minh điều đó. Đảng tự do đă ban hành đạo luật mới về người nghèo;
c̣n đảng Tory, do thủ tướng Peel đứng đầu, đă bảo vệ nó,
chỉ sửa vài chỗ lặt vặt bằng Poor-Law Amendment Bill5 1844. Đa số của
Đảng tự do đă thông qua dự luật ấy, đa số của đảng Tory cũng thế; c̣n
các thượng nghị sĩ cao quí th́ "đồng ư", lần trước cũng như lần này. Vậy là
người ta đă công khai đuổi giai cấp vô sản ra khỏi nhà nước và
xă hội; vậy là người ta đă tuyên bố rơ ràng
rằng: người vô sản không phải là con người, và không đáng được đối xử như con
người. Nhưng hăy an tâm và tin tưởng rằng: người vô sản của vương quốc
Britain sẽ giành lại được quyền làm người6*.
Đó là t́nh cảnh giai cấp công nhân Anh, mà tôi đă nghiên cứu trong 21
tháng; bằng sự quan sát của bản thân, và dựa vào các báo cáo chính thức, cũng
như những tài liệu đáng tin cậy khác. Và khi tôi khẳng định, mà c̣n khẳng định
nhiều lần trong quyển sách này, rằng t́nh cảnh đó là hoàn toàn không thể chịu
nổi; th́ đó không phải là quan điểm của riêng tôi. Ngay từ 1833, Gaskell đă
tuyên bố rằng ḿnh không hi vọng vào giải pháp ḥa b́nh, rằng cách mạng là khó
tránh khỏi. Năm 1838, Carlyle đă coi điều kiện sống
khổ sở của công nhân là nguồn gốc của phong trào Hiến chương và các hành động
cách mạng của giai cấp ấy; ông chỉ thấy lạ rằng họ vẫn lặng lẽ ngồi ở bàn tiệc
Barmecide7 suốt 8 năm, chỉ để nghe giai cấp tư sản
tự do hứa hăo. Năm 1844, ông tuyên bố là phải lập tức tổ chức lao động
"Nếu không muốn biến châu Âu, hay ít nhất là nước Anh, thành sa mạc hoang vu".
C̣n báo "Times", "tờ báo lớn nhất châu Âu", tháng Sáu 1844, nói toạc ra rằng:
" 'Tuyên chiến với lâu đài, ḥa b́nh cho lều cỏ!' Đó là lời kêu gọi các hành vi
khủng bố, và nó có thể sẽ vang lên một lần nữa trên khắp nước ta. Những người giàu,
hăy coi chừng!"
Nhưng, một lần nữa, hăy xem xét tiền đồ của giai cấp tư sản Anh. Trong trường
hợp xấu nhất là các đạo luật ngũ cốc bị xóa bỏ, việc này tất yếu sẽ tới sau vài
năm nữa; th́ công nghiệp nước ngoài, nhất là Mĩ, vẫn sẽ cạnh tranh được với công
nghiệp Anh. Công nghiệp Đức đang phát triển mạnh, và công nghiệp Mĩ đă tiến bước
khổng lồ. Nước Mĩ có nguồn tài nguyên vô tận, rất nhiều than và sắt, nguồn sức
nước lớn chưa từng có và hệ thống đường sông thuận tiện, nhất là những người dân
nhiệt t́nh và năng động, so với họ th́ người Anh chỉ là những kẻ phớt đời đang
ngủ; chỉ chưa tới mười năm, Mĩ đă xây dựng được một nền công nghiệp đủ sức
cạnh tranh với Anh về hàng vải bông thô (sản phẩm chủ yếu của công nghiệp Anh), đă
hất cẳng người Anh khỏi thị trường Bắc Mĩ và Nam Mĩ, và ở Trung Quốc th́ cũng
ngang với Anh rồi. T́nh h́nh các ngành công nghiệp khác cũng thế. Nếu có một
nước đủ khả năng giành lấy độc quyền công nghiệp, th́ đó là Mĩ. Nếu công nghiệp
Anh bị đánh bại như vậy, và điều đó tất yếu sẽ xảy ra trong 20 năm tới, trừ khi
điều kiện xă hội hiện tại có thay đổi; th́ đại đa số giai cấp vô sản sẽ trở
thành "người thừa" vĩnh viễn, và họ sẽ phải chọn: chết đói hoặc làm cách mạng.
Giai cấp tư sản Anh có thấy được điều ấy không? Trái lại, McCulloch, nhà kinh tế
học mà họ yêu thích, đă từ thư pḥng của ông ta mà dạy họ rằng: không nên nghĩ
là một nước Mĩ non trẻ, thậm chí chưa có đủ nhân lực, lại có thể thành công
trong sản xuất công nghiệp, mà c̣n cạnh tranh được với một nước công nghiệp già dặn
như Anh. Nếu người Mĩ muốn thử làm thế th́ họ điên rồi,
v́ họ nhất định thua. Tốt hơn là họ cứ chuyên về nông
nghiệp; khi nào đất đai của họ được canh tác hết, th́ có lẽ đó là lúc để họ phát triển
công nghiệp. Nhà kinh tế học thông minh ấy nói thế, và
cả giai cấp tư sản sùng bái ông ta, trong khi người Mĩ đang cướp hết thị
trường này tới thị trường khác; mới đây, một tay đầu cơ người Mĩ
đă cả gan chở một chuyến hàng bông của Mĩ
sang tận nước Anh, và chính người Anh lại nhập về để tái xuất khẩu!
Nhưng hăy giả sử là nước Anh vẫn giữ được độc quyền công nghiệp, và số
công xưởng của họ vẫn tiếp tục tăng; thế th́ sẽ ra sao? Khủng hoảng thương mại sẽ lại
diễn ra; nó sẽ ngày càng gay gắt và khủng khiếp, tương ứng với mức phát triển của công nghiệp và sự
tăng thêm của giai cấp vô sản. Do sự phá sản liên tục của
giai cấp tiểu tư sản, và sự tập trung tư bản trên qui mô khổng lồ vào tay rất ít người; số
người vô sản sẽ tăng theo cấp số nhân, và sẽ nhanh chóng bao gồm cả dân tộc, trừ vài
nhà triệu phú. Nhưng, trong sự phát triển ấy, tất yếu sẽ đến lúc mà
giai cấp vô sản thấy rằng: ḿnh có thể dễ dàng lật đổ trật
tự xă hội hiện tại; và thế là cách mạng xảy ra.
Nhưng có thể sự việc sẽ không xảy ra theo một trong hai cách ấy. Khủng
hoảng thương nghiệp, yếu tố mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển độc lập của giai
cấp vô sản, cùng với sự cạnh tranh của nước ngoài, và sự phá sản ngày càng nhiều
của giai cấp tiểu tư sản; sẽ đẩy nhanh quá tŕnh ấy. Tôi không tin là nhân dân
có thể chịu đựng thêm bất ḱ lần khủng hoảng nào nữa. Cuộc tiếp theo, nổ ra vào
năm 1846-47, có thể sẽ dẫn tới việc xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc và thông qua
Hiến chương. Hiến chương sẽ gây ra phong trào cách mạng lớn thế nào, th́ sau này
mới biết. Nhưng trong thời gian giữa cuộc khủng hoảng này và cuộc khủng hoảng
sau nữa, mà theo suy luận th́ nó sẽ xảy ra vào năm 1852-53; có thể muộn hơn do
sự xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc, hoặc sớm hơn do các nguyên nhân khác, như sự
cạnh tranh của nước ngoài; nhân dân Anh chắc là sẽ không thể chịu đựng thêm sự
bóc lột của bọn tư bản, và sẽ không chịu chết đói chỉ v́ chúng không cần họ nữa.
Tới lúc đó mà giai cấp tư sản Anh không tỉnh ngộ, và theo t́nh h́nh hiện nay mà
xét th́ sẽ là như thế; th́ cách mạng sẽ bùng nổ, và nó sẽ vượt xa mọi cuộc cách
mạng từ trước tới nay. Bị dồn vào đường cùng, người vô sản sẽ tiến hành đốt phá,
như giáo sĩ Stephens từng tuyên truyền cho họ; lửa báo thù của nhân dân sẽ bùng
lên mănh liệt, vượt xa vụ bạo động năm 1793.
Cuộc chiến của người nghèo chống người giàu sẽ là cuộc chiến
đẫm máu nhất từng có. Dù một số người tư sản sẽ chạy sang phía giai cấp vô sản,
dù toàn thể giai cấp tư sản có tự sửa ḿnh, th́ cũng vô ích. Vả lại, nếu
cả giai cấp tư sản có thay đổi quan điểm, th́ nó cũng không thể đi xa hơn cái
juste-milieu8 có tính ôn ḥa; những
người tư sản trung kiên hơn với công nhân sẽ trở
thành phái Girondins mới, và phái ấy cũng sẽ tiêu vong trong quá tŕnh mở
rộng bạo lực. Một giai cấp sẽ không dễ từ bỏ thành kiến như từ bỏ
quần áo cũ; nhất là với giai cấp tư sản Anh bảo thủ, hẹp ḥi và ích kỉ.
Ta có thể chắc chắn với tất cả các kết luận này,
v́ tiền đề của chúng đều là những sự thực không thể chối căi; và v́ chúng
dựa vào sự phát triển lịch sử, cũng như bản tính của loài người.
Làm nhà tiên tri ở Anh th́ dễ hơn ở bất ḱ đâu, v́ mọi nhân tố của xă
hội ở đây đều phát triển rơ rệt lắm rồi. Cách mạng là không
thể tránh khỏi, giờ th́ đă quá muộn để t́m giải pháp ḥa b́nh;
nhưng cách mạng có thể diễn ra ôn ḥa hơn tôi tính. Điều đó tùy thuộc vào sự
phát triển của giai cấp tư sản th́ ít, mà tùy thuộc vào sự phát triển của giai
cấp vô sản th́ nhiều. Giai cấp vô sản mà càng tiếp thu các nguyên lí xă hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, th́ cách mạng sẽ càng ít đổ máu, báo thù và tàn
khốc. Về nguyên tắc, chủ nghĩa cộng sản vượt lên trên sự
thù địch giữa tư sản và vô sản, chỉ thừa nhận ư nghĩa lịch sử của nó
ở hiện tại, nhưng phủ nhận tính tất yếu của nó
trong tương lai; chủ nghĩa cộng sản muốn thủ tiêu sự thù địch
ấy. Khi sự thù địch ấy hăy c̣n, th́ chủ nghĩa cộng sản xem việc giai cấp vô sản căm
thù những kẻ nô dịch họ là tất yếu, đó là đ̣n bẩy quan trọng nhất của
phong trào công nhân đang bắt đầu; nhưng chủ nghĩa cộng
sản vượt xa hơn sự căm thù ấy, v́ nó không chỉ là sự nghiệp của riêng
công nhân, mà là của cả loài người. Dù sao th́ cũng không có
người cộng sản nào lại nghĩ đến việc trả thù cá nhân, hay cho rằng
người tư sản, trong những điều kiện hiện tại, có thể hành động khác đi.
Chủ nghĩa xă hội Anh (tức chủ nghĩa cộng sản) xuất phát từ nguyên
tắc không đổ tội cho một cá nhân nào. Thế nên, khi công nhân Anh tiếp thu tư tưởng xă
hội chủ nghĩa càng nhiều, th́ sự căm thù hiện nay của họ càng biến
thành thừa (nếu sự căm thù ấy lại biểu hiện thành các hành động bạo lực
như hiện nay, th́ nó cũng không có tác dụng), cuộc chiến
chống giai cấp tư sản của họ sẽ càng ít dă man và thô bạo. Thực ra, nếu có thể biến
toàn bộ giai cấp vô sản thành cộng sản, trước khi cuộc chiến bùng nổ; th́
mọi chuyện sẽ diễn ra rất ḥa b́nh. Nhưng giờ th́ không thể làm thế nữa;
đă quá muộn rồi. Nhưng tôi cho là trước khi nổ ra cuộc chiến
hoàn toàn công khai, trực tiếp, và tất yếu, của người nghèo chống người giàu ở Anh;
th́ giai cấp vô sản ít ra cũng đă phần nào
hiểu được các vấn đề xă hội; Đảng Cộng sản, trong hoàn cảnh thuận lợi, có
thể khắc phục dần các yếu tố trả thù thô bạo của cách mạng,
và ngăn chặn sự tái diễn của vụ việc ngày 9 tháng Thermidor. Dù sao th́ kinh nghiệm của người
Pháp chưa phải là vô dụng, và hầu hết các lănh đạo hiện nay của phong trào Hiến
chương đều là người cộng sản. Mà chính v́ chủ nghĩa cộng sản vượt
lên trên mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản,
nên so với phong trào Hiến chương thuần túy vô sản, th́ nó càng dễ được
những người tư sản tiên tiến ủng hộ;
nhưng họ c̣n quá ít, và chỉ có thể có ở các thế hệ mới.
Nếu những kết luận này vẫn bị coi là
chưa đủ căn cứ, th́ tôi mong có dịp khác để chứng minh rằng:
chúng được rút ra một cách tất yếu, từ sự phát triển lịch sử của nước
Anh. Nhưng tôi tin chắc rằng: cuộc chiến của
người nghèo chống người giàu, đang được tiến hành một cách gián tiếp
và nhỏ lẻ, sẽ trở nên rộng khắp và công khai ở Anh. Muốn t́m giải pháp ḥa b́nh th́ đă quá muộn.
Sự phân hóa giai cấp ngày càng gay gắt, tinh thần đấu tranh và sự căm thù của công nhân
ngày càng cao, những xung đột nhỏ theo kiểu du kích ngày càng trở thành những trận đánh
lớn, và không lâu nữa, chỉ một va chạm nhẹ cũng đủ gây ra sóng
gió lở đất long trời. Khi đó, trên cả nước sẽ vang lên
lời kêu gọi chiến đấu: "Tuyên chiến với lâu đài, hoà
b́nh cho lều cỏ!", và những người giàu muốn coi chừng cũng không kịp.
Chú thích
1* Trong
cuốn sách của ḿnh: "Past and Present", London, 1843 ["Quá khứ và hiện tại", London, 1843],
Carlyle đă mô tả một cách tuyệt diệu giai cấp tư sản Anh và tính tham lam
ghê tởm của nó; tôi đă dịch một phần cuốn sách ấy cho tờ
"Deutsch-Französische Jahrbücher", mong độc giả tham khảo.
2 "Laissez faire,
laissez aller" ("Để cho tự do hành động") là công thức
của các nhà kinh tế học tư sản thuộc phái mậu dịch tự do; những người chủ
trương tự do mậu dịch, và nhà nước không can thiệp vào quan hệ kinh tế (Chú thích của người dịch).
3* "Extracts
from Information received by the Poor-Law-Commissioners". Published by
Authority, London, 1833 ["Trích báo cáo do tiểu ban luật về người nghèo
tŕnh bày". Do chính quyền công bố, London, 1833].
4 "như một chỉnh thể" (Chú thích của người dịch).
5 "dự luật bổ sung đạo luật về người nghèo"
(Chú thích của người dịch).
6* Để tránh mọi hiểu lầm và dị nghị do nó mà ra, tôi xin nói rơ là ḿnh
nói đến tư sản với tư cách một giai cấp, và với những việc
liên quan tới từng cá nhân, tôi chỉ đưa ra để dẫn chứng cho cách
suy nghĩ và hành động của giai cấp ấy.
V́ thế, tôi không phân tích sự khác nhau giữa các nhóm và
đảng phái của giai cấp tư sản, do chúng chỉ
có ư nghĩa về lịch sử và lí luận. Cũng v́ thế, tôi chỉ có thể nhân tiện nhắc
tới vài người tư sản, họ đă tỏ ra là những nhân vật đáng kính ngoại lệ.
Trong đó có những người cấp tiến kiên quyết,
gần như là thuộc phái Hiến chương, như các hạ nghị sĩ kiêm chủ
xưởng: Hindley ở Ashton, và Fielden ở Todmorden (Lancashire); ngoài ra là các nhà từ
thiện thuộc đảng Tory, họ vừa mới lập ra nhóm "Nước
Anh trẻ", nhất là các nghị sĩ Disraeli, Borthwick, Ferrand,
huân tước John Manners, v.v. Huân tước Ashley cũng gần gũi với họ. Mục tiêu
của nhóm "Nước Anh trẻ" là khôi phục lại "merry
England" cổ xưa, với các mặt huy hoàng và chế
độ phong kiến lăng mạn của nó; việc này cố nhiên là bất khả thi,
thậm chí c̣n là nực cười, nó nhạo báng
mọi sự phát triển lịch sử; nhưng họ có thiện ư, họ dám đứng lên
chống lại chế độ hiện hành và các thành kiến ngày nay,
họ dũng cảm thừa nhận mọi điều đê tiện của xă hội
hiện tại, điều đó cũng thật đáng quí. Ông
Thomas Carlyle nửa Đức nửa Anh là độc đáo nhất,
lúc đầu thuộc đảng Tory, sau đó lại vượt xa hơn mọi nhân vật kể trên.
Ông hiểu sâu sắc hơn mọi người tư sản Anh về nguyên nhân của
t́nh h́nh hỗn loạn xă hội, và yêu cầu phải tổ chức lao động. Tôi mong rằng ông
sẽ có thể đi theo con đường đúng đắn mà ḿnh đă t́m ra đó. Nhân
danh cá nhân và nhiều người Đức khác, tôi gửi đến ông những lời chúc tốt đẹp
nhất!
(Năm 1892) Nhưng Cách mạng tháng Hai đă biến Carlyle thành phần tử hoàn toàn phản
động, ḷng căm giận chính đáng của ông với bọn Philistine đă trở
thành ḷng căm giận của một tên Philistine hằn học với cơn sóng lịch sử đă ném
ḿnh lên bờ (Engels viết thêm cho bản tiếng Đức năm 1892).
7 "Bữa tiệc Barmecide" là một thành ngữ
lấy trong tập "Ngh́n lẻ một đêm". Trong bữa tiệc này,
người ta mang ra cho người đói hết đĩa nọ tới đĩa kia, nhưng toàn là đĩa
không (Chú thích của người dịch).
8 "thái độ đứng giữa vàng ngọc" (Chú thích của người dịch).
[Chương trước]
[Mục lục]