Trước khi nói đến các hình thức chính phủ khác nhau, ta hãy định nghĩa chính xác cái từ "Chinh phủ" mà xưa nay chưa ai giải thích thật đúng đắn.
Xin nói trước với độc giả rằng chương này cần phải được thật nghiêm túc; vì tôi không có tài làm sáng tỏ vấn đề đối với kẻ nào không muốn chăm chú tìm hiểu.
Mỗi hành động tự do đều có hai nguyên nhân tạo sinh ra nó. Một nguyên nhân thường và một nguyên nhân vật lý.
Nguyên nhân thường tức là ý chí thúc đẩy người ta hành động. Nguyên nhân vật lý tức là cái lực tác động thành việc làm. Khi tôi đi đến một cái đích, trước hết phải là do tôi muốn tới đó; mặt khác phải có đôi chân đưa tôi tới đích. Người bại liệt đang muốn chạy và người nhanh nhẹn không muốn chạy, cả hai đều ở yên một chỗ như nhau.
Cơ thể chính trị cũng có những động lực như thế: sức mạnh và ý chí. Một cái gọi là quyền lực lập pháp; cái kia gọi là quyền lực hành pháp. Không có cái gì tự làm hoặc phải làm mà không dựa vào thứ quyền lực ấy.
Ta đã thấy quyền lực lập pháp thuộc về nhân dân và chỉ có thể thuộc về nhân dân mà thôi. Trái lại, quyền hành pháp không thể thuộc về cái chung như quyền lập pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên quan đến những điều khoản cụ thể, không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản hoặc của cơ quan quyền lực tối cao, mà mọi cử chỉ cần phải là những đạo luật.
Vậy thì lực lượng công cộng phải có một nhân viên đứng ra tập hợp các sức mạnh, biến nó thành việc làm theo đúng hướng của ý chí chung, phục vụ cho mối liên hệ của quốc gia và của cơ quan quyền lực tối cao, tạo nên trong con người công cộng ấy một thứ liên hệ giống như trong con người thường, liên hệ giữa linh hồn với thể xác. Đó là cái lẽ khiến cho trong một quốc gia phải có chính phủ.
Chớ lẫn lộn chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao. Chính phủ chỉ là các bộ của nhà nước mà thôi .
Vậy chính phủ là gì ?
Chính phủ là một cơ thể trung gian giữa các thần dân với cơ quan quyền lực tối cao, để hai bên tương ứng với nhau, thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự cũng như tự do chính trị.
Các thành viên trong cơ thể trung gian này gọi là pháp quan hoặc các vua, tức là những người cai trị. Toàn bộ cơ thể trung gian này thì gọi là "Chính phủ"(41). Như vậy điều luật bắt nhân dân phải phục tùng chính phủ không phải là một khế ước (contrat). Ai nghĩ như vậy đều rất có lý.
Cơ thể trung gian này chỉ là một ủy viên hội; một cơ quan thực hành, trong đó các viên chức thực hiện những điều mà cơ quan quyền lực tối cao ủy thác, cơ quan quyền lực tối cao có thể hạn chế, sửa đổi, hoặc thu hồi quyền hành của các viên chức đó. Hủy bỏ quyền hành pháp là trái với bản chất của cơ thể xã hội do đó trái với mục đích của cộng đông xã hội.
Tên gọi sự thực hiện quyền hành pháp theo đúng luật là "Chính phủ", hoặc là "Cơ quan cai trị tối cao". Con người hoặc tổ chức được uỷ thác làm việc cai trị ấy thì gọi là "vị nguyên thủ" hoặc "pháp quan".
Trong chính phủ có các lực trung gian quan hệ với nhau, bao gồm cả quan hệ giữa cơ quan quyền lực tối cao với quốc gia. Có thể trình bày quan hệ này thành quan hệ giữa các cực trong một chuỗi tỷ lệ, mà tỷ lệ trung bình là chính phủ. Chính phủ nhận mệnh lệnh của cơ quan quyền lực tối cao, truyền tới dân chúng. Muốn cho quốc gia giữ được thế cân bằng thì các bên đều phải được đền đáp; một bên là công việc và quyền lực của chinh phủ, một bên là công việc và quyền lực của công dân, vừa là chủ nhân vừa là thần dân của chính phủ; hai bên chính phủ và công dân đều phải được đền đáp ngang nhau.
Chuỗi tỷ lệ nói trên rõ ràng là có ba mức độ: cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ (pháp quan) và công dân (thần dân). Nếu một trong ba mức độ này bị xấu đi thì chuỗi tỷ lệ sẽ mất cân đối.
Nếu cơ quan quyền lực tối cao (vốn làm chức năng lập pháp muốn trực tiếp cai trị hoặc các pháp quan (vốn làm chức năng hành pháp) lại muốn đứng ra ban bố luật; hoặc các thần dân lại không muốn phục tùng, thì lập tức nước nhà xảy ra lộn xộn; sức mạnh và ý chí không tác động hài hòa; đất nước sẽ sa vào tình trạng chuyên chế hoặc vô chính phủ.
Cuối cùng do mỗi chuỗi tỷ lệ chỉ có thể có, được một tỷ lệ trung bình, cho nên trong một nước cũng chỉ có thể tồn tại một chính phủ tốt mà thôi. Nhưng do hàng ngàn biến thiên có thể làm thay đổi các quan hệ trong một dân tộc cho nên chẳng những nhiều loại chính phủ sẽ thích hợp với nhiều loại nước khác nhau mà ngay trong một nước cũng có thể có nhiều loại chính phủ tốt thích hợp với nhiều giai đoạn khác nhau.
Để có được ý niệm rõ rệt về các mối quan hệ giữa hai cực, tôi xin lấy ví dụ về dân số là một thứ quan hệ dễ diễn giải hơn.
Giả định một nước có mười nghìn công dân. Ở đây cơ quan quyền lực tối cao chỉ được coi như một cơ thể tiêu biểu cho tập thể; nhưng mỗi con người, với tư cách thần dân thì được coi như một cá nhân. Như vậy cơ quan quyền lực tối cao tỷ lệ với thần dân là mười nghìn so với một, nghĩa là mỗi thần dân chỉ có một phần mười nghìn quyền lực tối cao, mặc dầu anh ta phải đem hết mình phục tùng quyền lực tối cao. Nếu số dân cuả nước đó tăng lên thành một trăm nghìn thì tình trạng của thần dân vẫn không thay đổi, mỗi người đều gánh chịu toàn toàn bộ hệ thống luật pháp của nước nhà; nhưng tỉ trọng là phiếu của họ bi tụt xuống, chỉ còn một phần trăm nghìn, tức là mười lần nhỏ hơn trước. Như vậy, thần dân bao giờ cũng chỉ là con số một, mà cơ quan quyền lực tối cao thì tỉ trọng tăng lên theo số dân. Thế là: Nước càng lớn, tự do càng giảm.
Khi tôi nói một tỉ lệ tăng lên thì tôi hiểu rằng tỉ lệ đó càng xa mức quân bình. Như vậy tỉ lệ càng lớn theo khái niệm toán học thì mức so sánh càng tụt đi theo khái niệm thông thường. Trong khái niệm toán học, tỉ lệ được tính theo số lượng, đo bằng trị số. Trong khái niệm thông thường tỉ lệ được tính bằng lối so sánh và ước lượng theo mức độ quân bình.
Nếu ý chí cá nhân kém gắn bó với ý chí tập thể, tức là phong tục tập quán xa lạ với luật pháp, thì lực đàn áp sẽ phải tăng lên. Vậy một chính phủ muốn tốt thì phải mạnh tương ứng với mức tăng của dân số. Mặt khác quốc gia phình lên, quan lại càng có khuynh hướng và phương tiện để lạm dụng quyền uy, thì chính phủ càng phải có thêm lực để chế ngự dân chúng; và cơ quan quyền lực tối cao phải có thêm lực để chế ngự chính phủ. Ở đây tôi không nói về một lực tuyệt đối mà chỉ nói về cái lực tương đối của các bộ phận trong quốc gia.
Từ đó ta thấy rằng quan hệ giữa ba mức độ nối tiếp nhau, giữa cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ, và dân chúng, không phải là một ý niệm tuỳ tiện, mà là hệ quả tất yếu, rút từ trong bản chất của cơ thể chính trị. Từ đó lại thấy thêm rặt g trong hai cực thì cực dân chúng, với tính cách thần dân, là cực cố định, thể hiện sự thống nhất. Mỗi lần quyền lợi chung (của hai cực) tăng hoặc giảm thì quyền lợi đơn phương (của một cực) cũng tăng hoặc giảm tương ứng, do đó vế trung gian cũng thay đổi . Thế là đủ để thấy rõ rằng không có một cấu trúc chính phủ nào là tuyệt đối, là duy nhất; mà có thể có mấy loại chính phủ khác nhau, tương ứng với bấy nhiêu cỡ quốc gia lớn nhỏ khác nhau.
Nếu có ai giễu cợt lối phân tích trên đây mà bảo rằng cứ việc khai căn số dân thì đã tìm ra tỷ lệ trung bình để tổ chức bộ máy chính phủ của một nước. Tôi xin trả lời rằng tôi chỉ lấy số dân làm một ví dụ; những tỉ lệ mà tôi nói ở đây không đơn thuần đo bằng số người, mà nói chung là đo bằng số lượng của hành động. Số lượng này hình thành bằng vô vàn lý do; vả lại muốn dùng ít lời lẽ khi giải thích, tôi phải mượn thuật ngữ toán học. Tuy nhiên tôi không quên rằng sự chính xác toán học không dùng để tính toán các số lượng tinh thần được (ND).
Chính phủ là nhỏ, mà cơ thể chính trị chứa đựng chính phủ là lớn. Đó là một con người tinh thần có những năng khiếu nhất định, chủ động như cơ quan quyền lực tối cao; thụ động như quốc gia, và người ta có thể phân giải con người tinh thần ấy thành nhiều mối quan hệ giống nhau, tạo ra một cấp độ mới, rồi một cấp độ mới nữa nằm trong cấp độ trước, theo như cấp độ của hệ thống toà án; cứ thế phân giải mãi cho đến các cấp độ trung bình không thể phân giải thêm lữa, tức là đến chỗ chỉ còn một thủ lĩnh tối cao, một pháp quan duy nhất trong bậc thang cấp độ đó, khác nào sự thống nhất của dãy số lẻ với dãy số nguyên.
Xin đừng bôi rối về chuyện có nhiêu cấp độ như trên. Ta hãy thỏa thuận coi chính phủ như một cơ thể mới trông cơ thể quốc gia, khác với dân chúng, và khác với cơ quan quyền lực tố cao, làm cơ thể trung gian giữa hại cực đó.
Bởi sự khác biệt chủ yếu giữa hai cơ thể nói trên mà quốc gia mới tồn tại do tự bản thân nó, và chính phủ thì tồn tại do cơ quan quyền lực tối cao, cho nên ý chí cao nhất của chính phủ phải là ý chí chung, phải là luật. Sức ạnh của chính phủ chỉ là sức mạnh công cộng qui tụ vào nó. Nếu chính phủ muốn tùy tiện xì ra một hành động chuyền quyền thì mối quan hệ toàn cục sẽ bắt đầu lơi lỏng. Cuối cùng, nếu như chính phủ có ý chí riêng mạnh hơn cả ý chí của cơ quan quyền lực tối cao, rồi sử dụng lực lượng mình nắm trong tay để thực hiện ý chí riêng ấy, thì một nước sẽ có hai cơ quan quyền lực tối cao, một cơ quan cao trong luật, và một cơ quan tối cao trong thực tế. Lúc đó sự thống nhất xã hội sẽ tan rã, cơ thể chính tri sẽ tàn lụi.
Tuy nhiên, muốn cho cơ thể chính phủ có một đời sống thực tế khác với cơ thể quốc gia; muốn cho mọi thành viên chính phủ có thể hoạt động hài hòa, đáp ứng được mục đích chân chính của nó, thì chính phủ phải có "cái tôi" cụ thể, có sự nhạy cảm chung của mọi thành viên, có một lực lượng, một ý chí riêng, nhằm tự bảo tồn mình. Đời sống thực tế của chính phủ đòi hỏi phải lập các hội đồng, các đoàn tư vấn, phải có quyền định đoạt, xử lý, có các quyền hạn, các chức vị, của chế độ ưu tiên giành riêng cho bộ máy chính phủ, khiến điều kiện sinh hoạt của các pháp quan phải được vẻ vang tương ứng với sự khó nhọc của họ.
Khó khăn là ở cách xếp đặt toàn bộ những cái bên dưới chính phủ; sắp xếp thế nào để nó không làm hỏng mất cấu trúc chung mà vẫn khẳng định được bản thân nó; làm thế nào cho chính phủ luôn luôn phân biệt được lực lượng chính phủ để bảo tồn chính phủ với lực lượng công cộng nhằm bảo tồn quốc gla. Nói tóm lại sắp xếp thế nào để luôn luôn có thể sẵn sàng hy sinh chính phủ vì nhân dân chứ không phải hy sinh nhân dân vì chính phủ(ND).
Ngoài ra, tuy cơ thể nhân tạo của chính phủ là sản phẩm của một cơ thể nhân tạo khác; tuy rằng chính phủ có một đời sống phụ thuộc, vay mượn, nhưng điều đó không ngăn cản chính phủ hoạt động một cách nhanh nhẹn, như một con người khoẻ mạnh. Cuốl cùng, chính phủ tuy không tách rời hẳn mục đích cấu tạo ra nó, vẫn giữ một khoảng cách nhất đinh so với mục đích, tùy theo phương thức cấu tạo ra nó.
Từ những điều khác biệt nói trên nảy sinh các mối quan hệ mà chính phủ phải có đối với cơ thể quốc gia, tùy theo những quan hệ cá biệt và bất thường, mà quốc gia phải phụ thuộc vào đó.
Nếu như mối quan hệ ấy bi hư hỏng thì thường khi ta thấy một chính phủ tốt nhất cũng trở thành chính phủ tồi tệ nhất.
Muốn trình bày nguyên nhân của những sự khác biệt trên kia, ta cần phải phân biệt vị nguyên thủ với chính phủ, cũng như tôi đã phân biệt Nhà nước với cơ quan quyền lực tối cao.
Bộ máy quan lại có thể bao gồm một số nhiều hay ít nhân viên. Chúng ta đã nói rằng dân số càng tăng thì tỉ trọng của cơ quan quyền lực tối cao so với thần dân càng lớn. Ta lại có thể nói y như thế trong tỉ lệ tương quan giữa chính phủ với quan lại.
Lực tổng quát của chính phủ là lực của quốc gia; điều đó không thay đổi. Nếu chính phủ càng dùng nhiều lực để tác động lên các nhân viên chính phủ thì phần lực còn lại để tác động vào dân chúng càng giảm đi.
Vậy quan lại càng đông, chính phủ càng yếu(ND). Đây là một châm ngôn cơ bản, cần giải thích thật rõ ràng. Ta có thể thấy trong con người một vị quan lại có ba ý chí khác nhau: Một là ý chí cá nhân của ông ta, chỉ nhằm mưu sự thành đạt cho bản thân mình. Hai là ý chí chung của cả lớp quan lại, chỉ liên quan đến sự thành đạt của chính phủ; có thể coi đó là ý chí tập thể chung của cả chính phủ, đồng thời là ý chí riêng của một bộ phận (chính phủ) trong toàn thể quốc gia. Ba là ý chí dân tộc hay ý chí tối cao, đây là ý chí chung, chung cho quốc gia như một tổng thể, và chung cho cả chính phủ như một bộ phận.
Trong chế độ lập pháp hoàn hảo, ý chí riêng hoặc ý chí cá nhân phải là số không; ý chí tập thể của chính phủ phải là rất phụ thuộc, do đó ý chi chung, ý chí tố cao luôn luôn phải là ý chí bao trùm, làm mực thước duy nhất cho ý chí khác.
Nếu theo trật tự tự nhiên tbì khác hẳn; các loại ý chí như trên rất linh hoạt, cơ hồ qui tụ vào làm một; ý chí chung luôn luôn là yếu nhất, rồi đến ý chí nhóm yếu thứ hai; và ý chí cá nhân mạnh hơn cả. Trong bộ máy chính phủ, mỗi chức viên trước hết là bản thân cá nhân anh ta, sau đó là một quan lại, cuối cùng một là một công dân.
Bậc thang ý chỉ theo trật tự tự nhiên trái ngược hẳn với nhu cầu của trật tự xã hội.
Đặt vấn đề như trên, ta thấy rằng chính phủ phải do một người nắm, ý chí riêng của người đó với ý chí cơ thể chính phủ hoàn toàn nhập lại, nên nó có một cường độ rất cao. Thế mà việc vận dụng lực là tùy thuộc vào cường độ của ý chí, mà lực tuyệt đối của chinh phủ thì không thay đổi, cho nên chính phủ năng động nhất sẽ là chính phủ của một người.
Trái lại, nếu ta nhập chính phủ với quyền lực lập pháp làm một, coi chính phủ như cơ quan quyền lực tối cao, coi mỗi công dân như một pháp quan; lúc đô ý chí bộ phận đồng nhất với ý chí toàn thể vẫn không linh hoạt hơn, khiến cho ý chí cá nhân được tác động với tất cả sức mạnh của nó. Như vậy chính phủ sẽ kém linh hoạt, vì lực tương đối của nó đã ở mức thấp nhất, trong khi lực tuyệt đối của nó vẫn không đổi.
Những mối quan hệ như trên là không chốl cãi được. Càng xem xét ta càng phải khẳng định như thế. Ví dụ: ta thấy rằng vị pháp quan trong cơ thể chính phủ năng nổ hơn người công dân trong cơ thể quốc gia, cho nên ý chí cá nhân trong hoạt động của chính phủ có ảnh hưởng nhiều hơn là trong hoạt động của quốc gia, vì mỗi ông quan đều được giao một chức vụ trong chính phủ, còn mỗi công dân tách rời ra thì chẳng có chức vụ gì trong quốc gia cả. Mặt khác quốc gia càng rộng lớn thêm thì lực lượng thực tế của quốc gia càng tăng, trong khi đó số lượng pháp quan không tăng thì chính phủ cũng không có thêm lực lượng thực tế, cho nên một khi quốc gia rộng lớn thêm thì lực lượng tương đối hay tính linh hoạt của chính phủ sẽ giảm bớt, bất kể lực tuyệt đối hoặc lực lượng thực tế của chính phủ có tăng hay không.
Chắc chắn là công tác càng giao cho nhiều người thì càng chậm xong, làm ăn quá thận trọng thì khó phát tài to, vì bỏ qua mất cơ hội, và bàn cãi nhiều thì thường hỏng việc.
Trên kia tôi đã chứng minh quan lại càng đông, chính phủ càng lỏng lẻo, và dân số càng lớn thì lực đàn áp càng phải tăng. Vậy thì tỷ lệ giữa quan lại với chính phủ phải nghịch với tỉ lệ giữa thần dân với cơ quan quyền lực tối cao; do đó quốc gia càng lớn chinh phủ càng phải chặt chẽ, cũng như dân chúng càng nhiều lên thì số quan lại cai trị càng phải giảm bớt đi.
Ở đây tôi chỉ nói về lực tương đối của chính phủ chứ không nói về sự đúng đắn của nó. Số pháp quan càng đông thì ý chí bộ phận của chính phủ càng gắn với ý chí toàn bộ; trái lại, nếu chỉ có một vị pháp quan duy nhất thì ý chí bộ phận chỉ là ý chí cá nhân. Như vậy được về mặt này thì mất về mặt khác; và nghệ thuật của nhà lập pháp là biết đặt đúng chỗ để ý chí và lực lượng của chính phủ luôn luôn tương đương nhau, phối hợp với nhau có lợi cho quốc gia nhiều nhất.
Ở chương trên ta đã thấy các hình thức chính phủ theo số lượng thành viên trong đó. Ở đây chúng ta xem xét thêm sự phân loại chính phủ.
Trước hết, cơ quan quyền lực tối cao có thể phó thác việc quản lý chính phủ cho toàn dân hoặc cho đại bộ phận dân chúng; như vậy sẽ có nhiều cóng dân - pháp quan hơn là số công dân thường. Ta gọi hình thức chính phủ này là "dân chủ".
Cũng có thể là cơ quan quyền lực tối cao rút hẹp chính phủ vào trong tay một nhóm nhỏ, như vậy sẽ có nhiều công dân thường hơn là số pháp quan. Hình thức chính phủ này gọi là "quí tộc".
Cuối cùng cơ quan quyền lực tối cao có thể tập trung quyền cai trị của chính phủ vào trong tay một pháp quan duy nhất; còn mọi pháp quan khác chỉ có quyền hạn cá nhân. Hình thức chính phủ thứ ba này gọi là "quân chủ".
Có ba hình thức chinh phủ kể trên, ít ra là hai hình thức đầu, đều nhạy cảm và có tầm hoạt động rộng rãi. Hình thức dân chủ có thể bao quát được toàn dân, hẹp nhất cũng bao quát được một nửa dân số. Hình thức quí tộc bao quát được từ một nửa đến một số ít dân chúng. Hình thức quân chủ cũng nhạy bén một mức độ nào đó. Thành bang Sparte thường xuyên có hai vua theo hiến pháp và đế quốc La Mã có tới tám vua một lúc, mà không ai coi đó là tình trạng đế quốc bi chia cắt.
Có một điểm chung mà hình thức trước trùng hợp với hình thức sau; đó là chính phủ cả ba hình thức cai trị nói trên đều nhạy bén tương ứng với các khuôn khổ, khác nhau của quốc gia với dân số đông hay ít.
Xin nói thêm rằng cùng một chính phủ mà có thể chia làm mấy bộ phận, mỗi bộ phận cai trì một cách khác nhau. Nhập cả ba hình thức lại có thể tìm ra nhiều hình thức hỗn hợp; và mỗi hình thức hỗn hợp lại có thể nhân lên với ba hình thức cai trị đơn thuần nói trên.
Thời đại nào người ta cũng tranh luận về hình thức cai trị của chính phủ, mà không phán đoán được rằng mỗi hình thức chỉ tốt trong trường hợp nhất định, và xấu trong những trường hợp khác.
Nếu số quan lại tối cao tỷ lệ nghịch với số công dân trong nước, thì ta có thể khái quát chung lại là: chính phủ dân chủ thích hợp với nước nhỏ, chính phủ quí tộc hợp với nước vừa và chính phủ quân chủ hợp với nước lớn (ND). Đó là qui luật rút ra từ nguyên lý. Nhưng làm sao mà tính được vô vàn trường hợp ngoại lệ, nảy sinh những hình thức chính phủ hỗn hợp khác nhau.
Người làm ra luật biết rõ hơn ai hết cách thực hiện và giải thích luật. Dường như không có một hiến pháp nào tốt hơn là để quyền hành pháp gắn liền với quyền lập pháp. Nhưng theo cách này chi chính phủ sẽ !ệch lạc trên một vài phương diện; vì những cái phải phân biệt sẽ không còn phân biệt nữa; người cầm đầu chinh phủ với cơ quan quyền lực tối cao sẽ chỉ là một người, sẽ hình thành một thứ chính phủ không có chính phủ,
Người làm ra luật lại đứng ra thi hành luật thì không tốt; cũng như cơ thể dân tộc phải chuyển cách nhìn tổng quát của nó thành cách nhìn cá biệt là điều không tốt; không gì nguy hiểm hơn là để lợi ích tư túi ảnh hưởng vào công việc chung và người lập pháp bị sa đọa vì cách nhìn tư túi thì còn tồi tệ hơn cả chính phủ lạm dụng luật pháp (ND). Lúc đó quốc gia sẽ bị biến chất, mọi thứ cải cách đều không thể thực hiện.
Một dân tộc không bao giờ lạm dụng chính phủ cũng sẽ không lạm dụng quyền độc lập của mình. Một dân tộc luôn luôn được cai trị tốt thì không cần phải bị cai trị nữa.
Nếu hiểu thuật ngữ "dân chủ" một cách thật chuẩn mực thì ta sẽ thấy từ trước chưa bao giờ có dân chủ, và sau này cũng sẽ không bao giờ có dân chủ thật sự. Số đông đứng ra cai trị và số ít bị cai trị thì thật là trái ngược với trật tự thiên nhiên. Ta không thể tưởng tượng rằng cả dân tộc luôn họp lại để bàn cãi liên miên về công việc chung. Như vậy không nào lập ra được các ủy ban để làm việc, nếu không thay đổi hình thức cai trị.
Có thể xác định trên nguyên tắc rằng khi các chức năng của chính phủ được phân phối cho nhiều cơ quan hành pháp đảm đương thì sê có một số ít cơ quan sớm muộn sẽ giành được uy thế lớn, do công việc của họ dễ giải quyết hơn các cơ quan khác.
Mặt khác một chính phủ như thế làm sao mà tương ứng đi các sự việc phức tạp khó kết hợp. Trước hết, nước rất nhỏ thì dân chúng dể tập hợp, mỗi công dân có thể biết tất cả các công dân khác. Hai là, phong tục tập quán giản dị thì có thể lường trước các công việc và các cuộc tranh luận gai góc. Sau nữa, giữa các hạng người, giữa các mức độ tài sản phải có sự binh đẳng cao độ; nếu không thế thì không duy trì được lâu dài tình trạng bình đẳng trong các loại quyền hạn và quyền uy. Cuối cùng, phải rất ít hoặc không có sự xa hoa, vi xa hoa là do nhiều của cải, và muốn xa hoa phải giàu có. Cái xa hoa làm hư hỏng cả người giàu và người nghèo; giàu hư hỏng vì chiếm hữu, nghèo hư hỏng vì thêm khát; cái tệ xa hoa bán rẻ tổ quốc vì sự mềm yếu hoặc vì tính kiêu căng; nó tước mất công dân của nước nhà bằng cách làm cho người này phải nô lệ người khác và tất cả dân chúng thì nô lệ theo dư luận.
Do đó một tác giả nổi tiếng đã lấy đức hạnh làm nguyên tắc cho chế độ cộng hòa; vì mọi điều kiện dân chủ nói trên không thể tồn tại nếu không có đức hạnh. Nhưng ông ta đã quá chú ý đến sự phân biệt đức hạnh với tội lỗi, nên đôi khi ông thiểu công bằng, đôi khi thiếu sáng suốt, ông không thấy rằng quyền uy tối cao thì ở đâu cũng thế, và đức hạnh đã là nguyên tắc thì phải có trong mọi quốc gia được tổ chức tốt, tùy theo hình thức chính phủ ở mỗi nước mà đức hạnh tồn tại với mức độ nhiều hoặc ít mà thôi.
Xin nói thêm rằng chính phủ dân chủ hay chính phủ nhân dần đã phải chịu cảnh xáo động và nội chiến hơn bất cứ loại chính phủ nào, vì trong chế độ dân chủ người ta luôn luôn đòi hỏi mãnh liệt phải thay đổi hình thức, người ta cần nhiêu can đảm để giữ lấy quyền dân chủ đã giành được. Trong chế độ dân chủ, người công dân phải có sức mạnh và tính kiên trì, phải tâm niệm mỗi ngày câu nói nổi tiếng của một vị tỉnh trưởng[1*] đức hạnh trong cuộc hội thảo Tây Ban Nha: Malo pariculoaam lirbertelem quam quietum servilium (42).
Ví phỏng có một dân tộc "nhà trời" thì chấc là họ được cai trị dân chủ thật sự; chứ một hình thức chính phủ hoàn hảo đến thế thì không đáng cho con người trần gian được hưởng.
Ở đây chúng ta có hai con người tinh thần khác nhau: Chính phủ và cơ quan quyền lực tối cao; cho nên cũng có hai ý chí chung; một ý chí chung của toàn bộ công dân, và một ý chí chung của các thành viên bộ máy cai trị. Như vậy, mặc dù chính phủ có thể thi hành các chính sách đôi nội theo ý mình, mà vẫn không thể nhân danh cơ quan quyền lực tối cao để nói chuyện với dân chúng, tức là chính phủ không thể nhân danh toàn dân được. Xin chớ quên điều này.
Các xã hội đầu tiên đã từng được cai trị theo phương thức quí tộc. Những người cầm đầu các thị tộc cùng nhau bàn giải công việc chung. Lớp người trẻ sẵn sàng nhường bước trước uy tín của các cụ già nhiều kinh nghiệm. Do đó mà có các tên gọi như "đạo trưởng" "cổ nhân", "trưởng lão" "bô lão" v.v... Các bộ lạc mông muội ở Nam Mỹ ngày nay vẫn còn tự cai trị như thế và họ được cai trị rất tốt.
Nhưng dần dần sự bất bình đẳng trong thể chế vượt lên trên sự bất bình đẳng trong tự nhiên, cái giàu và cái mạnh[2*] được coi trọng hơn tuổi tác; tầng lớp quí tộc được bầu cử ra; cuốl cùng quyền lực được chuyển tay cùng với tài sản từ đời cha sang đời con; hình thành những gia tộc quí phái, chính phủ trở thành bộ máy gia truyền; và người ta thấy những vị "trưởng lão", "bô lão" chỉ có hai mươi tuổi.
Như vậy, có ba loại chính phủ quí tộc: loại tự nhiên, loại bầu cử, và loại gia truyền. Loại thứ nhất chỉ thích hợp với các dân tộc giản đơn; loại thứ ba tồi tệ nhất; loại thứ hai là tốt nhất, đó là loại chính phủ quí tộc chính cống.
Chính phủ quí tộc bầu cử có cái hay là hai quyền lập pháp và hành pháp được tách bạch ra, và các nhân viên chính phủ được chọn lọc qua bầu cử. Với một chính phủ nhân dân thì mọi công dân sinh ra đã là pháp quan; nhưng ở đây, với chính phủ quí tộc thì số pháp quan bị hạn chế trong một ít người, họ chỉ trở thành pháp quan sau khi được bầu cử[3*]. Phương pháp bầu cử làm cho lòng trung thành, trí sáng suốt và kinh nghiệm trở thành những bảo đảm mới cho con người được cai trị một cách thông minh.
Hơn nữa, trong chính phủ quí tộc bầu cử, các hội đồng được thành lập một cách thuận lợi, công việc được bàn bạc chóng vánh, được thực hiện một cách cần mẫn và trong trật tự; uy tín quốc gia ở ngoài nước do các vị trưởng lão có uy tín bảo vệ thì hơn là do hàng trăm kẻ tầm thường không tên tuổi.
Tóm lại, trật tự tốt nhất và hợp tự nhiên nhất là để cho các người thông thái cai trị dân chúng. Ta có thề tin chắc rằng họ cai trị vì lợi ích dân chúng chứ không phải vì lợi ích bản thân họ.
Chẳng cần phải thêm số người thẩm quyền lên cho nhiều một cách vô ích. Cái mà một trăm người chọn lọc làm được tốt thì không nên giao cho hai vạn người làm, nhưng phải nhận thấy rằng trong trường hợp này lợi ích cơ thể sẽ bắt đầu tác động, nó điều khiển lực lượng công cộng của toàn dân kém đi chứ không được đúng theo qui tắc của ý chí chung như trong thể chế dân chủ . Dưới thề chế quí tộc bầu cử không tránh khỏi tình trạng quyền lực hành pháp sẽ có lúc bị giảm sút phần nào do một khuynh hướng tất yếu , gây tổn thương đến hiệu lực của luật, tức là của quyền lập pháp.
Tính toán sao cho thỏa đáng, thì ta thấy chính phủ quí tộc không hợp với một nước quá nhỏ, một dân tộc quá giản đơn và chất phác, đến mức việc hành pháp trực tiếp thể hiện ngay lập tức ý chí chung như trong một thể chế dân chủ tốt. Mặt khác chính phủ quí tộc cũng không hợp với một nước quá lớn, đến mức các thủ lĩnh địa phương có thể tách khỏi thủ lĩnh tối cao, mỗi người độc lập làm chủ một phương.
Nhưng nếu chính phủ quí tộc đòi hỏi ít đức hạnh hơn là chính phủ nhân dân, thì cũng cần một số đức hạnh nhất định. Nó đòi hỏi người giàu phải có chừng mực và người nghèo phải biết yên phận. Ở đây sự bình đẳng tuyệt đố bị hạn chế. Ngay ở thành bang Sparte thời xưa cũng không có được bình đẳng tuyệt đối.
Nếu hình thức chính phủ quí tộc bao gồm sự bất bình đẳng tài sản một mức nào đó, thì chính là để cho một số người có thể dành hết thời gian của mình vào việc điều hành công tác chung, chứ không phải như Aristote dự tính là để cho người giàu được ưu thế hơn. Trái lại, vẫn cần phải xóa bỏ sự bất bình đẳng, phải giáo dục cho dân chúng thấy rằng trong các giá trị con người còn có những cái quan trọng hơn cả sự giàu có.
Từ đầu tới giờ chúng ta coi chính phủ như một con người tinh thần tập thể, con người thống nhất bởi sức mạnh của pháp luật, và được ủy thác với tư cách là quyền lực hành pháp. Đến đây, chúng ta hãy xem xét cái quyền lực thống nhất ấy nằm trong tay một con người thật bằng xương bằng thịt; chỉ một mình ông ta có quyền sắp xếp mọi việc theo luật pháp. Con người này được gọi là nhà vua hoặc hoàng đế.
Khác với mọi hình thức cai trị kể trên, mà con người tập thể đóng vai trò của một cá nhân. Ở đây một cá nhân đóng vai trò con người tập thể. Ở đây sự thống nhất tinh thần trong chính phủ đồng thời là một sự thống nhất vật lý. Mọi cơ năng của luật pháp thống nhất trong cơ thể chính phủ, đã phát huy bao nhiêu khả năng, thì ở đây nó trở thành thống nhất một cách hoàn toàn, và cũng phát huy bấy nhiêu khả năng.
Như vậy ý chí cá nhân của dân chúng và ý chí của chính phủ, sức mạnh công cộng của quốc gia và sức mạnh riêng của chính phủ đều qui về một mối, chuyển theo một nguyên động lực. Mọi cơ năng của bộ máy đêu nằm trong một bàn tay. Tất cả hướng theo một mục đích. Không hề có những vận động ngược chiều triệt tiêu tác dụng của nhau. Không thể nghĩ ra một cấu trúc nào trong đó chỉ cần dùng chút ít cố gắng cũng tạo ra được một hoạt động mạnh mẽ đến như thế. Nhà vật lý Archimède (43) lặng lẽ ngồi trên bờ, nhẹ nhàng kéo chiếc thuyền lớn theo chiều sóng vỗ, đó là hình ảnh một vị hoàng đế khéo léo đang cai quản quốc gia rộng lớn từ trong cung điện của mình. Ông làm cho tất cả đều chuyển động trong khi bản thân ông thì dường như đứng im.
Nhưng, nếu không có một thứ chính phủ nào hiệu nghiệm hơn loại chính phủ quân chủ này, thì một kiểu khác cũng không có một thứ chính phủ nào mà ý chí cá nhãn lại có tầm rộng lớn và khống chế mọi ý chí khác một cách dễ dàng đến thế. Mọi cái đều đi theo một mục đích. Thật như vậy đấy. Nhưng cái đích ấy phải đâu là cái được dân chúng hoan nghênh. Ngay sức mạnh của chinh phủ cũng thường quay lại làm tổn thương sức mạnh của đất nước.
Các ông vua đều muốn chuyên chế; và từ xa người ta đã kêu to lên với họ rằng muốn chuyên chế được thì biện pháp hay nhất là hãy làm cho dân chúng yêu vua (ND). Phương châm này thật là đẹp và thật là đúng. Tiếc thay trong các triều đình người ta thường bất chấp và chế giễu phương châm đó.
Sức mạnh tạo ra bằng lòng thương yêu của dân chúng là sức mạnh lớn nhất. Nhưng sức mạnh này thật là tạm thời và có điều kiện; chẳng bao giờ các vị hoàng đế lại vừa lòng với sức mạnh ấy. Các ông vua mạnh nhất thường muốn làm ác mà vẫn giữ nguyên địa vị độc tôn. Nếu nhà thuyết khách nói với vua rằng sức dân là sức vua, quyền lợi lớn nhất của vua là dân được ấm no, đông đúc, mạnh khoẻ, thì các vị hoàng đế cũng thừa biết rằng điều đó không phải là đúng đối với họ.
Quyền lợi cá nhân của vua trước hết là dân phải hèn yếu, đáng khinh và không bao giờ có thể chống lại được vua.
Giả định rằng thần dân luôn luôn cúi rạp phục tùng, lúc đó quyền lợi của vua sẽ là sự cường thịnh của dân; vì sức mạnh ấy khiến cho các nước láng giềng phải vì nể vua. Nhưng quyền lợi này vẫn chỉ là thứ yếu và phụ thuộc; cho nên các vị hoàng đế chỉ thích nghe câu châm ngôn thứ hai, vì nó có lợi trực tiếp cho họ. Đó là câu của Samuel (44) nói với người Hébreux (45), điều mà Machiavel (46) đã chứng minh rất rõ. Machiavel giả đò khuyên vua chúa, nhưng thật ra ông đã nêu những bài học lớn thật sự cho nhân dân. Cuốn sách "Ông Hoàng" (Le Prince) của ông chính là cuốn sách của các nền cộng hòa[4*].
Chúng ta đã thấy rằng trong mối tương quan chung thì chính phủ quân chủ chỉ thích hợp với các nước lớn, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu loại chính phủ này.
Sự cai quản công cộng càng nhiều thì quan hệ giữa chính phủ với thần dân càng lỏng lẻo và càng đi gần tới chỗ bình đẳng, đến mức bình đẳng như trong chế độ dân chủ. Mối quan hệ giữa chính phủ và thần dân càng tăng lên, càng bớt lỏng lẻo, chừng nào mà chính phủ co hẹp lại, tự siết chặt lại, siết chắc đến mức tối đa tức là chính phủ nằm gọn trong tay một cá nhân. Lúc này có một khoảng cách rất lớn giữa nhân dân với chính phủ: thiếu mất những mối dây liên hệ. Để tạo nên những mối dây liên hệ cần thiết này phải có các trật tự trung gian, phải có các hoàng thân, các quan lớn, các nhà qúi tộc để bù vào chỗ trống đó, tất cả những cấp bậc trật tự trung gian này không thích hợp với một nhà nước nhỏ bé, vì nước nhỏ thì các cấp trung gian sẽ không sống nổi.
Nhưng nếu nước lớn là khó cai trị, thì để cho một người cai trị lại càng khó mà cai trị cho tốt; và khi hoàng đế giao quyền cho các vị công hầu thay thế mình để cai trị thì sẽ rối rắm biết bao.
Khuyết tật chủ yếu và tất yếu của một chính phủ quân chủ là không bao giờ tiếng nói công cộng của nhân dân được đưa lên tới hàng tối cao (ND). Ở hàng tối cao này đáng lẽ phải có những người học vấn, tài năng, thì thường khi lại là những kẻ quấy rối, thạo lừa đảo, khéo âm mưu. Chúng chỉ là những tài năng nhỏ mọn, một khi giành được địa vị chúng sẽ bộc lộ những điều xuẩn ngốc. Khuyết điểm này làm cho chế độ quân chủ thua hẳn chế độ dân chủ.
Dân chúng chọn lựa thi ít nhầm lẫn hơn một ông vua chọn lựa. Cho nên hiếm thấy một người cầm đầu chính phủ cộng hòa mà lại ngốc nghếch, cũng như hiếm thấy một ông quan xứng đáng trong trêu đình của nhà vua. Nếu ngẫu nhiên có một người xứng đáng, đủ tài cầm cân nảy mực trong một chế độ dân chủ, giữa cái mớ quan lại cạo giấy, thì cũng khó mà tìm ra nguồn gốc của ông ta. Đó sẽ là sự kiện quan trọng đánh dấu cả một giai đoạn lịch sử quốc gia vậy.
Muốn cho một nước quân chủ được cai trị tốt, thì chiều rộng của quốc gia phải đo ngang với tài năng của đức vua trị vì.
Chinh phục thì dễ hơn là quản lý. Với một đòn bẩy cứng có thể dùng ngón tay mà làm rung chuyển hoàn cầu; nhưng giữ cho trái đất quay một cách ổn định phải có nhiều đôi vai của thần Herecule.
Đối với một nước lớn vừa phải thôi, thì ông vua bao giờ cũng là bé nhỏ. Nếu tầm rộng lớn của quốc gia chưa xứng với tài trí bao la của ông vua- đấy là trường hợp rất họa hoằn-, thì đất nước vẫn không được cai trị tốt đâu; bởi vì vua cứ theo tầm nhìn bao la của mình mà quên mất lợi ích thường ngày của dân chúng. Ông vua tài trí đó cũng không làm cho dân chúng bớt khổ hơn là một ông vua kém cỏi làm khổ dân vì sự dốt nát của mình.
Dưới chế độ quân chủ dường như là đất nước cứ phải phình rộng ra hoặc co hẹp lại tùy theo tài năng của mỗi đời vua. Thật ra đất nước phải có biên giới cố định, người cai trị phải có tài năng đúng chuẩn thì mọi việc mới tránh khỏi lủng củng.
Điều bất lợi rõ rệt nhất của loại chính phủ một người này là chế độ kế vị cha truyền con nối. Nhược điểm này liên quan đến hai nhược điểm khác. Vua chết đi, phải lập ngay vua mới, thế là có một quãng giao thời nguy hiểm đầy sóng gió. Dân chúng thì chẳng quan tâm gì lắm và vẫn giữ tính chất bình di trọn vẹn như xưa; nhưng các bè đảng mưu toan lập tức xen vào công việc. Kẻ đã được người ta bán nước cho thường không đem nước mà bán lại lần nữa. Hắn sẽ bóp nặn bọn yếu hèn để bù vào món tiền mà người ta lấy của hắn khi bán nước cho hắn. Sớm muộn rồi mọi thứ trong cái nền cai trị này đều có thể dùng tiền mà mua được cả. Cảnh "bình yên" khi đất nước có vua lại còn tồi tệ hơn cảnh hỗn loạn trong buổi giao thời.
Người ta đã làm gì để phòng ngừa khuyết tật này? Người ta biến ngai vàng thành một vật cha truyền con nối. Người ta đặt ra lệ luật ngăn chặn sự tranh ngôi khi vua chết, bằng cách chỉ định người phụ chính; lấy cái bất tiện trong việc phụ chính để thay cho sự bất lợi trong việc đặt vua mới. Người ta thích cái vẻ êm thấm bề ngoài hơn là một nền cai trị thông minh. Thà đem bọn nhóc con hoàng tử kì quặc và ngốc nghếch lên ngôi còn hơn là chọn tìm một ông vua anh minh. Người ta chẳng nghĩ rằng làm như thế để tránh rủi ro trong buổi giao thời chính là tự mình chống lại mọi điều may mắn.
Khi vua cha Denys (48) mắng hoàng tử về một hành động bỉ ổi, Denys con đã trả lời sắc sảo: "Chính ông đã làm gương cho tôi đó! Ông nội tôi ngày xưa có phải là vua đâu!" [5*].
Dưới chế độ dân chủ, tất cả đều nhằm tước bỏ lý trí và sự thông minh của con người được đặt lên ngôi trị vì thiên hạ. Người ta hết sức quan tâm dạy cho các hoàng tử nắm được nghệ thuật trị vì. Nhưng hình như dạy dỗ cũng chẳng ích gì. Họ bắt đầu dạy các hoàng tử phải vâng lời, dễ bảo. Các bậc minh quân được lịch sử ca ngợi thường không được dạy về cách trị vì. Trị vì là một khoa học mà người ta không bao giờ tiếp thu được khi đã học nó quá nhiều; và người ta nắm được nghệ thuật trị vì trong khi phục tùng nhiều hơn là trong khi chỉ huy. (Nam utilissium idem ac breviscimus bonarum male rumque rerum detectus cogitare quid aut nolueris sub alio principe, sut volueris) [6*] (49) .
Tính không kiên định của chính phủ quân chủ gây ra nhiều điều lủng củng. Nó xử lý công việc khi thì bằng kế hoạch này khi thì bằng kế hoạch nọ, tùy theo tính nết của mỗi đời vua, hoặc tùy theo bọn người được vua ủy thác. Nó không thể theo đuổi một mục đích nào ổn định, cũng không thể có một phương châm hành động lâu bền. Nhà nước cứ chao đảo từ phương châm này sang phương châm nọ, từ dự án nọ sang dự án kia. Điều này không thể xảy ra với một chính phủ dân chủ mà thủ lĩnh luôn luôn nhất quán. Nhìn chung người ta thấy rằng một triều đình thường lắm mưu ma chước quĩ, và trong một nghị viện thì lắm trí thông minh (ND). Các nhà nước cộng hòa đi tới đích theo những quan điểm nhất quán và liên tục. Trái lại, trong cung đình thì mỗi lần nổi dậy là một lần thay đổi phương châm. Thói thường của tất cả các quan thượng thư và hầu hết các ông vua là đảo lại công việc ngược chiều với người trước mình.
Từ điều lủng cũng nói trên rút ra một lối ngụy biện quen thuộc của chính trị quân chủ: họ gắn cho chính phủ những đặc điểm của gia đình, trong đó vua quan là cha, dân là con cái - sai lầm này đã bị loại bỏ rồi - họ lại còn gắn cho pháp quan mọi đức tính cần có và các vua là người hoàn hảo bậc nhất. Do đó họ cho rằng chính phủ quân chủ là tốt hơn tất cả các loại chính phủ khác. Vì nó là mạnh nhất, không ai chối cãi được. Muốn cho chính phủ quân chủ trở thành tối ưu thì chỉ còn thiếu một điều duy nhất là ý chí của bộ máy nhà nước phải phù hợp hơn nữa với ý chí thần dân.
Nhưng, nếu vua là một con người hiếm có [7*] như Platon (50) nói: thế thì thiên nhiên và số phận đã ban thưởng tài năng hiếm có cho vua được mấy lần? Giáo dục hoàng gia xưa nay chỉ làm hư hỏng các hoàng tử; tại sao cứ phải hy vọng vào những người kế vị được đào tạo để đưa lên ngai vàng?
Chẳng qua người ta chỉ lạm dụng, đánh lộn sòng khái niệm "chính phủ quân chủ" với khái niệm "minh quân". Muốn hiểu chính phủ quân chủ là cái gì thì phải xét đến các ông vua ác hoặc có khuyết tật, bởi vì chính những kẻ ấy mới leo lên ngai vàng và chính ngai vàng làm cho họ thành tồi tệ.
Những kẻ dựng nên nhà nước quân chủ không lạ gì những khuyết tật kể trên, nhưng họ có bối rối đâu. Bài thuốc chữa bệnh của họ là truyền bảo cho dân chúng: "Hãy cứ lặng lẽ mà phục tùng. Khi Trời giận dữ thì Trời phái vua ác xuống trị vì, dân gian hãy ráng mà chịu đựng hình phạt của Thượng đế".
Lời thuyết giáo thật là thánh thiện! Nhưng tôi cho rằng nên đưa câu ấy vào cuốn sách chính trị thì hơn là đưa lên bục giảng của mục sư.
Ta sẽ nói gì khi một bác sĩ hứa hẹn với người bệnh về phép lạ của Chúa. Tất cả nghệ thuật của anh ta chỉ là khuyên con bệnh chịu khó chờ đợi mà thôi.
Ai chẳng biết rằng gặp phải chính phủ tồi tệ thì mình chịu vậy; nhưng vấn đề đặt ra sẽ là: Phải tìm ra một chính phủ tốt.
Nói đúng ra, không hề có chính phủ theo một loại đơn thuần, một thủ lĩnh duy nhất cũng phải có các quan lại dưới quyền. Một chính phủ nhân dân cũng phải có người cầm đầu Như vậy, trước sự phân phối quyền lực hành pháp luôn luôn phải có những cấp bậc từ lớn đến nhỏ; đôi khi cấp trên phải phụ thuộc vào cấp dưới, đôi khi cấp dưới phải phụ thuộc vào cấp trên.
Có lúc sự phân phối đồng đều khiến cho các cấp bậc liên tiếp nhau đều phụ thuộc lẫn nhau như trong chính phủ nước Anh. Cũng có lúc quyền lực của mỗi bộ phận đều độc lập với nhau, nhưng đều không hoàn chỉnh, như ở Ba Lan. Hình thức này không tốt, vì không có thống nhất ít trong chính phủ, quốc gia thiếu sự liên hệ chặt chẽ.
Vậy so sánh một chính phủ đơn thuần với một chính phủ hỗn hợp thì chính phủ nào hay hơn? Câu hỏi làm xao động trong giới chính khách. Trả lời câu hỏi này thì phải tách bạch ra như tôi đã phán tích ở các chương trên.
Chính phủ đơn thuần là tốt hơn khi nó là đơn thuần thật sự Nhưng khi quyền lực hành pháp không phụ thuộc vào quyền lực lập pháp thì chính phủ có nhiều quan hệ với quyền lực tối cao hơn là quan hệ với dân chúng, phải sửa lại sự chênh lệch đó bằng cách chia chính phủ ra; như vậy mỗi bộ phận chính phủ sẽ không có đủ quyền lực đối với thần dân, và tổng thể chính phủ sẽ kém phần mạnh mẽ trong quan hệ với quyền lực tối cao.
Người ta còn ngăn ngừa điều bất lợi nói trên bằng cách đặt một số pháp quan trung gian; chính phủ vẫn nguyên vẹn, không bị phân chia, pháp quan điều hòa quyền lập pháp với quyền hành pháp và giữ quyền hạn của mình một cách tương ứng. Trường hợp này không phải là chính phủ hỗn hợp mà là chính phủ dung hòa.
Người ta có thể dùng những biện pháp tương tự để sửa những điều bất lợi khác. Khi chính phủ quá yếu, họ lập ra các cơ quan hành pháp để tập trung quyền lực. Cách này được ứng dụng với tất cả các chính phủ dân chủ. Biện pháp phân chia chính phủ như trên là để làm cho chính phủ (quân chủ) yếu bớt đi, còn trong trường hợp này phân chia chinh phủ (dân chủ) là để tăng cường khả năng của chính phủ. Các dạng chính phủ đơn thuần thì mạnh hoặc yếu đến mức tối đa, dạng chính phủ hỗn hợp thì giữ sức mạnh ở mức trung bình.
Tự do không phải là kết quả của mọi khí hậu. Tự do cũng không phải vừa tầm với mọi dân tộc. Càng suy nghĩ về nguyên lý trên đây của Montesquieu càng thấy có lý. Càng chối cãi ta càng gặp những trường hợp chứng minh nguyên lý đó là đúng.
Trong mọi thứ chính phủ trên đời này, con người công cộng chỉ tiêu dùng mà không sản xuất gì hết. Từ đâu mà có những thứ tiêu dùng cho con người công cộng đó ? Từ lao động của các thành viên quốc gia. Đó là phần thặng dư của những cá nhân sản xuất các thứ cần thiết cho công chúng.
Suy rộng ra, ta thấy nhà nước dân sự chỉ có thể tồn tại chừng nào mà lao động của con người sản xuất có thể làm ra dư thừa hơn mức họ cần dùng.
Nhưng phần thặng dư nói trên không phải ở nước nào cũng như nhau cả. Nước này thặng dư khá nhiều, nước kia chẳng được mấy tý, nước khác chẳng có chút nào, lại có nước bị thâm hụt.
Điều này tuỳ thuộc ở khí hậu, đất đai, ở tính chất của sản xuất, ở sức mạnh của dân cư, ở nhu cầu tiêu dùng nhiều hay ít, và ở nhiều thứ khác cấu tạo nên sức tiêu dùng.
Mặt khác, không phải mỗi chính phủ đều cùng một bản chất như nhau. Có chính phủ ngốn ngấu nhiều, có chính phủ tiêu pha ít thôi. Những sự khác nhau về mặt này lại dựa trên một nguyên tắc khác. Sự đóng góp càng xa nguồn thì lại càng tốn kém. Không thể đo gánh nặng đóng góp bằng số lượng thuế khoá, mà phải đo bằng con đường chu chuyển của đóng góp; thuế khoá rút từ người sản xuất rồi trở lại tay người sản xuất như thế nào. Nếu con đường chu chuyển này mà nhanh, gọn thì bất kể đóng góp nhiều hay ít, dân sự luôn giàu có tài chính quốc gia luôn trôi chảy. Trái lại, nếu con đường chu chuyển này tồi tệ, dân chúng góp tay ít nhưng chẳng thu về được gì mãi rồi kiệt quệ; nhà nước không giàu lên được, dân thì ăn mày, trộm cắp.
Vậy chính phủ càng xa dân thì gánh nặng của dân càng tăng lên. Cho nên trong chế độ dân chủ gánh nặng đóng góp của dân là nhẹ, trong chế độ quí tộc thì nặng hơn một mức, và nặng nề nhất là trong chế độ quân chủ . Chế đô quân chủ chỉ thích hợp với những nước lớn và giàu, chế độ qui tộc với các nước vừa phải, chế độ dân chủ với các nước nhỏ và nghèo.
Cho nên càng suy nghĩ về vấn đề này ta càng thấy sự khác biệt giữa nhà nước tự do với nhà nước quân chủ. Trong nhà nước tự do tất cả đều được dùng cho lợi ích công cộng, trong các loại nhà nước khác thì lợi ích công cộng và lợi ích tư nhân bù trừ lẫn nhau, phía này tăng lên thì phía kia giảm xuống; trong chế độ quân chủ đáng lẽ cai trị dân để cho dân sung sướng thì các vua chúa chuyên chế chỉ làm cho dân nghèo khổ để dễ bề cai trị .
Trong mỗi vung khí hậu, thiên nhiên đã qui đinh nên có hình thức chính phủ nào và tính chất dân chúng nên như thế nào để thích hợp với khí hậu vùng đó.
Những nơi khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, sản phẩm không xứng với lao động, thì nên bỏ hoang, hoặc để cho dân man rợ ở. Những nơi làm ăn chỉ vừa đủ tiêu dùng thì nên để cho dân bán khai ở; các vùng này chưa thể ứng dụng một chế độ chính trị nào. Những nơi có thể làm ăn dư dật chút ít thì thích hợp với dân tự do. Những nơi đất phì nhiêu, làm ít thu hoạch nhiều, nên được cai trị theo chế độ quân chủ, dùng thói xa hoa của vua chúa để tiêu phí cho hết cái dư dật của thần dân; vì phần thặng dư lao động ấy do chính phủ tiêu xài thì hơn là để cho tư nhân sử dụng.
Tôi biết những trường hợp ngoại lệ; nhưng cả những ngoại lệ ấy cũng chứng minh qui luật là sớm muộn rồi sẽ có những cuộc cách mạng để đưa sự vật vào qui củ theo trật tự thiên nhiên.
Cần luôn luôn phân biệt các qui luật phổ biến với các nguyên nhân cá biệt có thể điều chỉnh bớt hiệu quả của qui luật. Nếu tất cả vùng Nam đều có những nước cộng hoà, và tất cả vùng Bắc đều có những nước quân chủ, thì dường như qui luật chung không đúng theo ảnh hưởng của khí hậu :Xứ nóng hợp với chế độ quân chủ, xứ lạnh hợp với chế độ bán khai, và các xứ ôn đới trung gian thích hợp với những thể chế tốt hơn.
Tôi còn thấy rằng trong khi chấp nhận nguyên tắc, người ta vẫn có thể bàn cãi về cách vận dụng. Ví dụ: xứ lạnh cũng có những vùng rất phì nhiêu, và phương Nam ầm áp cũng có nơi cằn cỗi. Điều khó lý giải này chỉ khó với những ai không chịu xem xét toàn diện. Xin nói là phải tính đến những quan hệ về lao động, về lực lượng, về sức tiêu thụ, v.v..
Giả định có hai vùng đất đai ngang nhau, nhưng vùng A năng suất năm, vùng B năng suất mười. Nếu dân cư vùng A tiêu thụ bốn mà vùng B tiêu thụ chín, thì phần thặng dư của vùng A là một phần năm, mà của vùng B thì là một phần mười. Tỉ lệ giữa hai vùng về số thặng dư ngược lại với tỷ lệ về năng suất. Vùng đất năng suất năm lại tạo ra một khối thặng dư gấp đôi vùng đất năng suất mười. Nhưng ở đây không có vấn đề về khối sản phẩm gấp đôi; và tôi không tin rằng có kẻ nào lại dám nói độ phì nhiêu chung của xứ lạnh cao bằng độ phì nhiêu chung của xứ nóng.
Vả lại, nếu giả định có sự bằng nhau về tỷ lệ phì nhiêu nói chung như trên, ở nước Anh cũng ngang như ở Sicile. Ở Ba Lan cũng như ở Ai Cập, thiên về phía Nam, ta có châu Phi và Ấn Độ; thiên về phía Bắc chẳng còn gì nữa. Ví phỏng độ phì nhiêu thật là ngang nhau, thì vẫn có sự chênh lệch về canh tác. Ở Sicile chỉ cần gãi đất lên, ở Anh phải cày bừa cẩn thận. Vậy ở đâu phải bỏ ra nhiều lao động trên một sản phẩm thì ở đó phần thặng dư tất phải ít hơn.
Ngoài ra, nên nhớ rằng dân xứ nóng tiêu thụ ít hơn dân xứ lạnh. Khí hậu xứ nóng buộc người ta phải ăn uống thanh đạm để giữ được sức khoẻ. Người Châu Âu sang ở xứ nóng mà muốn ăn uống như khi ở nước mình thì chỉ chết vì kiết lỵ hay táo bón. Chardin (51) viết: "So với người châu Phi thì chúng ta là những con vật ăn tươi nuốt sóng như chó sói. Có người nói dân Ba Tư ăn uống thanh đạm vì đất đai của họ ít trồng trọt. Tôi cho rằng người Ba Tư ít trồng trọt vì họ chẳng ăn uống bao lăm. Nếu cái tính thanh đạm là hậu quả của tình trạng đói kém thì chỉ người nghèo mới ăn uống thanh đạm thôi chứ; hoặc tùy theo mỗi tính giàu, nghèo mà sức ăn phải khác nhau chứ. Ở đây cái nết thanh đạm là chung cho mọi người, khắp cả nước. Họ còn tự hào về nếp uống thanh đạm, và họ kiêu hãnh về nước da của người Ba Tư đẹp hơn người theo đạo Gia-tô nhiều. Thật vậy, dân Ba Tư có nước da mịn màng, còn như dân Arménie ở Châu Âu thì da thô, nâu, thân thể ục ịch".
Càng đến gần vùng xích đạo càng thấy dân chúng sống đơn giản. Hầu như họ rất ít ăn thịt. Gạo, bắp, khoai, kê là thức ăn hàng ngày của họ. Ở Ba Tư có hàng triệu người khẩu phần ăn hàng ngày chưa tới một xu. Ngay ở Châu Âu ta cũng thấy khẩu phần ăn của dân vùng Bắc khác dân vùng Nam. Một bữa ăn của người Đức có thể bằng tám bữa của người Tây Ban Nha. Trong các nước mà người ta thích ăn uống thì cái nết xa hoa cũng thể hiện ngay trong sự ăn uống. Người Anh chưng lên bàn ăn toàn những món thịt. Người Ý thì bày biện thanh lịch, chỉ đường ngọt với hoa thơm.
Trong cái mặc cũng có sự khác biệt như thế. Những nơi khí hậu thay đổi đột ngột người ta mặc tốt và giản dị. Trái lại có nơi người ta mặc chỉ để chưng diện, ham lòe loẹt hơn là thực dụng; đối với họ mặc quần áo là để tỏ sự xa hoa. Ở Naples (52) các bạn thấy người ta dạo chơi hằng ngày trên đồi Pauxilippe (53) với bộ cánh màu vàng rực rỡ nhưng chân trần không bít tất.
Về kiến trúc cũng vậy. Nếu không sợ gió bão phá hỏng thì người ta xây dựng thật nguy nga. Người Paris và Luân Đôn ở chỉ cốt cho ấm và đủ tiện nghi. Người Madrid tạo những phòng khách thật choáng lộn, các cửa sổ mở toang, nhưng họ ngủ trong ổ như ổ chuột.
Thức ăn ở các xứ nóng có nhiều chất, vừa ngon vừa bổ. Đây là điều khác biệt thứ ba, không thể không ảnh hưởng tới việc mặc. Tại sao ở Ý người ta ăn nhiều rau. Vì rau ở Ý rất tốt, nhiều chất bổ và ngon miệng. Ở Pháp rau không được ngon và bổ, nên không được coi trọng trên các bàn ăn; thế mà trồng rau cũng chiếm khá nhiều đất đai và lao động. Lúa mì ở Barbarie (54) không ngon như ở Pháp, nhưng có nhiều chất bột; lúa mì ở Pháp lại có năng suất cao hơn các xứ phía Bắc.
Từ điểm này ta có thể rút ra các mức độ khác nhau một cách tương tự từ vùng xích đạo tới vùng bấc cực. Các xứ phương Bắc, cùng một lượng sản phẩm mà rút ra được ít thực phẩm hơn các xứ phương Nam, phải chăng đó là một sự thiệt thòi.
Ngoài mấy nhận xét kể trên, tôi có thể nói thêm một điều nữa, là các xứ nóng còn ít dân cư hơn xứ lạnh, nhưng lại có khả năng nuôi sống nhiều người hơn xứ lạnh. Điều này tạo thêm lợi thế và sự dư dật cho chế độ quân chủ; đất rộng, người thưa thì khó vận động cách mạng khó mà gặp gỡ, bàn tính với nhau một cách nhanh chóng và bí mật, chính phủ dễ tìm cách khám phá, ngăn cản cắt đường liên lạc của các tổ chức cách mạng. Nhưng một nước dân cư đông, ở chen chúc thì chính phủ khó mà làm chuyện lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Các thủ lĩnh bàn tính công việc một cách an toàn trong cơ quan cũng như thủ tướng bàn việc trong nội các, và dân chúng dễ tập hợp trên quảng trường cũng như quân đội dễ tập hợp trong các phố.
Lợi thế của chính phủ quân chủ là ở khả năng hoạt động tầm xa. Nhờ lập ra các điểm tựa mà sức mạnh của chính phủ tăng lên như những chiếc đòn bẩy[8*]. Còn sức mạnh của dân chúng thì trái lại nó chỉ tác động khi dân ở tập trung. Sức mạnh ấy sẽ bốc hơi và mất đi khi ở thưa thớt, giống như thuốc súng rải ra trên mặt đất, chỉ có thể cháy từng hạt một. Các nước thưa dân cư cũng là chỗ thích hợp cho chế độ độc tài giống như loài ác thú chỉ ngự trị ở những vùng hoang dã.
"Thế nào là một chính phủ tốt?". Nếu hỏi một cách tuyệt đối như thế thì câu hỏi này thật là mông lung, khó giải đáp hoặc muốn có bao nhiêu đáp án cũng được, tùy theo cách nhìn hỗn hợp tương đối và tuyệt đối của nhân dân.
Nhưng nếu hỏi: "Căn cứ vào những dấu hiệu nào để biết một dân tộc được cai trị tốt ?" thì đó lại là chuyện khác, có thể giải đáp được trong thực tế.
Tuy nhiên, người ta vẫn không giải đáp vấn đề này đâu; vì mỗi người muốn giải đáp theo cách của mình. Là nhân dân thì người ta thích sự yên tĩnh công cộng; là công dân, người ta thích quyền tự do cá nhân, thần dân thích cho quyền sở hữu được vững chắc; công dân thích sự vững chắc của con người. Một bên thích chính phủ thật nghiêm, bên kia muốn chính phủ thật hiền. Anh thần dân mong chính phủ trừng phạt các tội phạm, anh công dân chỉ mong ngăn ngừa tội ác. Anh kia chỉ mong người ta chẳng biết nước mình là ai . Một anh hài lòng về tiền tệ lưu thông phong phú; anh kia mong cho dân đủ bánh mì ăn là được. Một anh thích cho nước mình được dân tộc láng giềng kính nể.
Ví phỏng chính phủ thỏa mãn hết các điều nói trên, và các điều tương tự nữa, thì câu hỏi đặt ra có được giải đáp tốt hơn hay không?
Không thể dùng thước để đo các phẩm chất tinh thần được, ta phải đo nó bằng dấu hiệu vậy.
Người ta thường không biết gì đến một dấu hiệu thật là giản đơn, hoặc không tin rằng dấu hiệu giản đơn này có thể dùng được. Mục đích cuối cùng của một tập thể chính trị là gì? Chính là sự bảo toàn và phát triển của các thành viên tập thể. Vậy dấu hiệu chính xác nhất của sự bảo toàn và phát triển ấy là gì ? Chính là số lượng và mật độ dân cư.
Chẳng phải tìm các dấu hiệu nào khác nữa. Dấu hiệu này ở đâu cũng như nhau cả. Một chính phủ không dùng đến biện pháp ngoại lai, không di dân các nơi khác đến, không đi chinh phục thuộc địa, mà dân trong nước ngày càng đông đúc, thì nhất định phải là một chính phủ tốt.
Một chính phủ mà để cho dân ngày càng hao mòn, suy nhược, số dân ngày càng giảm sút; đó là chính phủ tồi tệ nhất (ND). Đó, xin mời các nhà hạch toán hãy cân, đo, đong đếm và so sánh đi [9*].
Đạo lý của sách vở là "lợi ích thô thiển mở mồm tác giả". Nói gì thì nói, chứ một nước dầu nổi tiếng vang lừng mà dân số cứ giảm sút thì nhất định không phải là ở đây mọi việc đều trôi chảy cả đâu. Và đừng thấy một nhà thơ thu nhập tới mười vạn đồng livres mà tưởng rằng thời đại của ông là huy hoàng hơn mọi thời đại khác. Đừng quá tin vào sự yên tĩnh nghỉ ngơi của các thủ lĩnh để cho rằng nuớc đó thịnh trị. Phải nhìn vào phúc lợi của nhân dân cả nước, và nhất là nhìn xem quốc gia có trù mật hay không. Trận mưa có thể phá hoại hoa màu mấy tổng, nhưng không gây nạn đói trong cả nước. Những cuộc tao loạn làm cho các nhà cầm quyền sợ hãi, nhưng không phải là tai họa thật sự đối với nhân dân, mặc dầu nhân dân cũng có khi bị thả nổi trong lúc người ta tranh chấp với bọn bạo chúa đang trị vì.
Tình trạng phồn vinh hoặc điêu đứng thật sự của nhân dân nảy sinh một cách thường xuyên mới là đáng chú ý. Khi cả nước quằn quại dưới ách chuyên chế thì mọi thứ đều phải héo queo, vì bọn bạo chúa đang tự do tàn hại dân chúng. Ubi solitudinem factunt, pacem appellant (Câu la tinh có nghĩa là : "Chúng biến tất cả thành sa mạc và nói : Đó mới là thế giới". (Tacite - Agricole, tập 3O-ND).
Khi các quan trong triều đình Pháp tranh chấp nhau, triều đình lục đục, vị Giáo chủ hậu bổ Paris phải thủ túi dao găm khi đến hội trường, thì dân chúng nước Pháp vẫn sống sung túc, đông đảo, trong cảnh bình yên, lương thiện.
Thuở xưa Hi Lạp đã phồn vinh trong khi có chiến tranh ác liệt. Máu chảy thành sông mà nước Hi Lạp vẫn đầy người. Machiavel nói: Dường như nước cộng hòa của chúng ta mạnh hơn lên ngay trong khi đang xảy ra nội chiến. Chém giết nhau, hạ bệ nhau. Đức hạnh, phong tục và sự độc lập của dân chúng có sức làm mạnh quốc gia hơn là những cuộc tranh chấp làm yếu quốc gia. Một ít rung chuyển sẽ tạo cho tâm hồn con người có sức bật; và con người phát triển được nhờ có tự do là chính, là nhiều hơn nhờ ở trạng thái yên bình.
Vì ý chí riêng thường hay tác động ngược lại ý chí thung, cho nên chính phủ cũng thường hay có ý hướng làm trái với quyền lực tối cao của dân chúng. Cái ý hướng ấy càng tăng thì cấu trúc quốc gia càng suy giảm. Do không có một ý chí có thể nào cưỡng lại để cân bằng với ý hướng nói trên của chính phủ, nên nhất định sớm muộn rồi chính phủ cũng lấn át quyền lực tối cao của toàn dân, phá hoại mất hiệp ước (traité) xã hội. Đó là mối nguy hại tiềm tàng cố hữu trong một cơ thể chính trị từ khi nó mới hình thành; chẳng khác gì cái già và cái chết tiềm tàng phá hoại cơ thể con người vậy.
Có hai con đường dẫn chính phủ đến chỗ thoái hóa: khi chính phủ siết chặt lại mãi, và khi chính phủ tự buông lỏng, tự tiêu vong.
Chính phủ tự siết chặt từ số lớn xuống số nhỏ, tức là từ dân chủ xuống quí tộc, từ quí tộc xuống quân chủ. Đó là sự sa đọa tự nhiên của chính phủ [10*]. Nếu chính phủ biến hoá từ số nhỏ sang số lớn (từ quân chủ sang quí tộc, đến dân chủ) thì ta gọi là chính phủ tự buông lỏng, nhưng sự chuyển biến ngược này là không thể có được.
Thật sự, không bao giờ chính phủ thay đổi hình thức khi mà sức bật của nó đã rệu rã nhưng chưa làm cho nó yếu đến mức không thể giữ nguyên hình thức cần có. Tuy nhiên, nếu chính phủ buông lỏng thêm nữa bằng cách dàn trải mình ra, thì sức mạnh của nó sẽ mất hẳn; chính phủ khó mà tồn tại được; phải nâng nó dậy, lên giây thiều cho nó; nếu không làm thế thì trạng thái hiện hữu của chính phủ sẽ sụp đổ hoàn toàn.
Người ta không quên nhắc tôi chú ý tới nền cộng hòa La Mã, La Mã đã đi theo một quá trình ngược lại, chuyển từ quân chủ sang quí tộc rồi từ quí tộc sang dân chủ, nhưng tôi không nghĩ như vậy.
Thể chế đầu tiên của Romulus (Vua đầu tiên sáng lập ra La Mã, trị vì từ 753-715 tr.CN; theo truyền thuyết, ông là người hiếu chiến, bị phái quí tộc ghét, ông biến mất trong một cơn giông bất ngờ khi ông đang duyệt binh - ND) là một thể chế hỗn hợp, thoái hóa đột ngột thành chuyên chế. Do những nguyên nhân cá biệt, Nhà nước này tan rã trước khi hình thành như một đứa trẻ chết ở tuổi vị thành niên. Cuộc phế truất của vua Tarquin (xem chú thích số 35 - ND) chính là giai đoạn hình thành nền cộng hòa. Nhưng ngay từ đầu nền cộng hòa chưa mang một hình thức cố định, vì sự nghiệp mới thực hiện nửa vời, chỉ xóa bỏ tầng lớp quí tộc Patriciat mà thôi. Làm như thế tầng lớp quí tộc truyền đời vẫn tồn tại, đó là thế lực tồi tệ nhất, đối lập với nền dân chủ. Cho nên hình thức chính phủ La Mã vẫn bấp bênh, không khẳng định dứt khoát. Sau này Machiavel đã chứng minh rằng nền dân chủ La Mã chỉ dừng lại ở việc thiết lập chế dộ hộ dân quan "tribum". Chỉ đến lúc đó mới có một chính phủ thực sự với một nền dân chủ thực sự. Dân chúng chẳng những là người nắm quyền lực tối cao mà còn là cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, nghị viện chỉ là một cơ quan thứ cấp để điều hoà và tập trung việc cai trị; các quan chấp chính "Consul" dù là nhà quí tộc, hay vị pháp quan nhất đẳng hay bậc tướng lĩnh cao cấp trong thời chiến đi nữa, cũng chỉ là những nguời chủ trì hội nghị nhân dân La Mã mà thôi. Thời kỳ đó, người ta thấy chính phủ La Mã thiên hướng khá mạnh sang thể chế quí tộc. Tầng lớp quí tộc patriciat bị xoá bỏ rồi, lớp quí tộc còn lại không ở trong hàng ngũ quan viên patriciens như ở Venise và Gêne. Nhưng trong cơ cấu nghị viện gồm có quan viên quí tộc patriciens và quan viên bình dân "Plébiens". Ngay các vi hộ dân quan tribuns khi đã đoạt lấy quyền cai trị, dù họ được gọi là gì đi nữa, họ vẫn cai trị theo lợi ích cuả nhân dân. Đó là một nền cai trị theo thể chế quí tộc.
Việc giải tán chính phủ có thể xảy ra trong hai trường hợp: Thứ nhất là khi người cầm đầu chính phủ không cai trị theo pháp luật, mà lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Lúc đó có sự thay đổi rõ rệt; không phải chính phủ, mà là quốc gia tự siết chặt lại. Tôi muốn nói là quốc gia lớn tan biến, hình thành một quốc gia khác trong quốc gia cũ, chỉ gồm các nhân viên chính phủ mà thôi. Trước mặt nhân dân chỉ còn lại ông chủ và kẻ độc tài. Thế là sau khi chính phủ cố cưỡng đoạt mất quyền lực tối cao, thì công ước (pacte) xã hội bị phá bỏ; mọi công dân trở lại với quyền tự do thiên nhiên của họ. Họ bị cưỡng bức mà phải phục tùng, chứ không phục tùng vì nghĩa vụ.
Thứ hai, cùng trường hợp tương tự như trên, các thành viên chính phủ thoán đoạt quyền hành một cách riêng rẽ (đáng lẽ họ phải thực hiện quyền hành một cách tập thể). Đây không phải chỉ là việc vi phạm pháp luật một cách giản đơn; mà nó còn gây ra lộn xộn lớn. Có bao nhiêu pháp quan thì thành ra bấy nhiêu ông thủ tướng. Cả quốc gia cũng như chính phủ bị chia nhỏ, bị tan rã, hoặc thay hình đổi dạng.
Tình trạng quốc gia tan rã, cũng như tình trạng chính phủ lạm quyền đều được gọi là vô chính phủ (anarchie). Nền dân chủ mà thoái hóa thì gọi là "chế độ quần chúng loạn xạ" (ochlocratie), chính phủ quí tộc thoái hoá gọi là "chế độ quả đầu, đại tộc trị" (oligarchie). Tôi xin nói thêm : chế độ quân chủ thoái hóa thì thành ra "chế độ bạo chúa" (tyranie). Nhưng thuật ngữ cuối cùng này còn hơi mơ hồ, cần được giải thích.
Khi trong nền cai trị quí tộc có hiện tượng lạm dụng; nảy sinh các cuộc nội chiến, rồi thiết lập chế độ "tam quan chấp chính" (Triumsvirat), thì ba ông Sylla, Jules César và Auguste trở thành ba vị hoàng đế thật sự. Cuối cùng nền chuyên chế cuả Tibère, nhà nước La Mã tan rã.
Lịch sử La Mã không phủ định, mà củng cố những điều tôi đã trình bày trên. Theo nghĩa thông thường, bạo chúa là một ông vua cai trị bằng bạo lực, bất chấp cả công lý và pháp luật. Định nghĩa thật chính xác thì bạo chúa là một cá nhân tự choán lấy quyền hành của các ông vua mà thực ra hắn không có quyền ấy. Người Hy Lạp hiểu hai tiếng bạo chúa là kẻ độc tài, kẻ độc tài ấy có thể là tốt hoặc xấu nhưng pháp luật không trao quyền cho mà tự choán lấy quyền [11*].
Vậy bạo chúa là đồng nghĩa với "kẻ thoán đoạt" .
Muốn đặt tên khác nhau cho sự việc khác nhau, ta gọi kẻ thoán đoạt ngôi vua là bạo chúa (tyran) và kẻ thoán đoạt quyền lực tối cao của nhân dân là tên độc tài, kẻ chuyên chế (despota) . Bạo chúa là người can thiệp tùy tiện vào pháp luật rồi cai tri theo pháp luật. Tên độc tài (hoặc chuyên chế) thì giẫm đạp hẳn lên pháp luật. Như vậy, bạo chúa không nhất định là chuyên chế, mà chuyên chế thì bao giờ cũng là bạo chúa.
Aristote trong sách "Đạo lý nicôm", tập 8, trang 10 đã phân biệt bạo chúa với nhà vua. Bạo chúa vì mình mà cai trị , vua thì cai trị vì lợi ích thần dân. Ngoài ra các tác giả Hy Lạp còn định nghĩa "bạo chúa" một cách khác; như Senophon, trong sách Hiéron (bàn về bạo chúa) cũng dựa theo sự phân biệt cuả Aristote nhưng lại nói rằng từ khi khai thiên lập địa đã có nhiều vua chứ không phải chỉ có một vua mà thôi.
Trên kia đã trình bày cái dốc thoái hoá không tránh khỏi của những chính phủ được tổ chức khá nhất. Nếu Sparte và La Mã đã phải suy vong thì còn có quốc gia nào hy vọng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Muốn có thành quả, xin đừng màng đến những điều không làm nổi. Xin chớ tự lừa phỉnh mình rằng công việc nhân tạo của ta có sức bền vững như công trình tạo hóa.
Cơ thể chính trị cũng như cơ thể con người, bắt đầu chết từ khi nó mới sinh ra, và mang ngay trong mình nó những nguyên nhân của hủy diệt. Nhưng cơ thể chính trị cũng như cơ thể con người đều có thể có một cấu trúc đủ to khoẻ để duy trì nó bền lâu đến một mức nhất định. Cấu trúc con người là tác phẩm của thiên nhiên, cấu trúc nhà nước là tác phẩm của nghệ thuật nhân tạo. Con người kéo dài đời sống của Nhà nước theo ý muốn, bằng cách tạo cho Nhà nước một cấu trúc tốt nhất. Một cấu trúc tốt nhất rồi cũng có lúc tan rã, nhưng nó vẫn bền lâu hơn các cấu trúc khác, nếu không có một sự cố bất ngờ nào khiến nó phải suy vong trước kỳ hạn.
Nguyên lý của cuộc sống chính trị nằm trong quyền uy tối cao. Quyền lập pháp là trái tim của quốc gia, quyền hành pháp là bộ não làm cho các bộ phận hoạt động. Bộ não có lúc bị tê liệt mà người vẫn còn sống được một cách đần độn, nhưng khi trái tim ngừng đập thì con người chết ngay lập tức.
Nhà nước tồn tại không do các đạo luật mà do quyền lập pháp.
Luật hôm qua không giống luật hôm nay, nhưng nó cứ được mặc nhiên chấp nhận trong im lặng coi như cơ quan quyền lực tối cao vẫn chuẩn y các đạo luật cũ mà họ không hủy bỏ. Đã một lần họ ưa thích nó thì họ cứ ưa thích mãi cho đến lúc họ muốn xoá bỏ nó.
Tại sao người ta lại quá tôn trọng các đạo luật cũ như vậy? Chính vì cái lẽ đã nói trên. Chỉ có tính ưu việt của ý chí cổ đại mới giữ được các đạo luật lâu bền đến thế. Nếu cơ quan quyền lực tối cao qua các thời nối tiếp nhau không nhận các đạo luật ấy là bổ ích, thì họ đã xóa bỏ chúng hàng nghìn lần rồi, do đó, các đạo luật cổ xưa không yếu đi mà còn được thêm sức mạnh ở tất cả những quốc gia có cấu trúc tốt. Định kiến của cổ nhận mỗi ngày càng khiến cho các đạo luật xưa thêm vẻ tôn nghiêm.
Trong khi khắp nơi luật pháp bị lỗi thời và kém hiệu lực thì các đạo luật cổ xưa được tôn kính; điều này chứng tỏ ràng ngày nay quyền lập pháp không còn nữa, nhà nước đã suy vong mất rồi.
Cơ quan quyền lực tối cao không có sức mạnh nào ngoài quyền lực lập pháp, nên chỉ hoạt động bằng các đạo luật. Các đạo luật là hành vi hợp thức của ý chí chung; cho nên quyền lực tối cao chỉ có thể tác động khi dân chúng họp lại.
Người ta sẽ bảo : Họp toàn dần ư? Kỳ quặc nhỉ!
Vâng, đó là chuyện kỳ quặc ngày nay, chứ hai nghìn năm về trước, đó là chuyện bình thường.
Vậy có phải ngày nay con người đã đổi tính chất rồi chăng? .
Trong các sự kiện tinh thần, giới hạn của khả năng không hẹp như ta tưởng. Sự yếu đuối, những tật xấu, những thành kiến đã thu hẹp khả năng của chúng ta lại. Những tâm hồn thấp kém không hiểu nổi các vĩ nhân cũng như những người nô lệ hèn mọn nhe răng cười chế giễu khi nghe nói hai tiếng "Tự do".
Có thể coi cái do người làm ra như một sự vật tự nó nảy sinh. Tôi không nói về những nền cộng hòa cổ xưa ở Hi Lạp, mà xin nói về nền cộng hòa La Mã. Đây là một quốc gia lớn. Thành phố La Mã là thành phố lớn. Cuộc kiểm kê cuối cùng cho biết La Mã có hơn bốn mươi vạn công dân cầm vũ khí; toàn đế quốc La Mã có trên một triệu công dân, chưa kể các thần dân ngoại kiều, phụ nữ, trẻ em và nô lệ.
Thử tưởng tượng xem nếu thường xuyên hội họp toàn dân thủ đô La Mã và ngoại thành thì sẽ phiền toái biết bao! Thế mà ngày xưa toàn dân La Mã thường hội họp hàng tuần, có khi một tuần họp mấy lần nữa kia! Qua các cuộc họp này họ đã thực hiện quyền lực tối cao của dân chúng, và còn thực hiện một phần quyền lực của chính phủ nữa. Họ giải quyết một số công việc, luận bàn một số vấn đề . Trên quảng trường quốc gia toàn dân thường đóng những vai pháp quan hơn là những công dân.
Lần ngược trở lên những thời đại xa xưa nhất của các dân tộc, ta thấy phần lớn các chính phủ, ngay cả chính phủ quân chủ, như dân tộc Macédoine, dân tộc Franc đều đã từng có lối họp toàn dân như thế.
Dù sao, người ta không thể bác bỏ cách làm tốt đẹp này; nhờ nó mà giải quyết được mọi khó khăn. Từ hiện thực đến khả năng, tôi thấy hệ quả rõ ràng là tốt .
Nếu chỉ họp toàn dân một lần để qui định rõ hiến pháp rồi chuẩn y một cơ quan pháp luật thì chưa đủ. Nếu chỉ họp toàn dân để lập ra một chính phủ thường trực và bầu ra các vị pháp quan một lần là xong thì cũng chưa đủ. Phải có những hội nghị bất thường khi gặp việc cần bàn mà chưa dự kiến trước, lại cần phải có những cuộc họp định kỳ không ai được phép trì hoãn hoặc xóa bỏ; cứ đến ngày, đến hạn là toàn dân về họp, do pháp luật triệu tập, chứ không cần một hình thức thủ tục triệu tập nào cả.
Nhưng ngoài những phiên họp hợp pháp như trên, các cuộc họp khác không do người có thầm quyền triệu tập theo đúng thể thức qui định thì đều là bất hợp pháp, dù có bàn ra chuyện gì cũng chỉ coi bằng không; bởi vì ngay việc quyết đinh họp hay không họp cũng phải toát ra từ luật.
Còn như các cuộc họp đinh kỳ nên thưa, nên nhặt như thế nào thì tuỳ theo tình huống cụ thể, chứ không ai định ra một qui tắc nào nhất định được. Tuy nhiên, có thể nói một cách khái quát ràng chính phủ càng mạnh thì vai trò quyền lực tối cao của nhân dân càng phải biểu hiện thường xuyên.
Có người sẽ hỏi tôi: Họp toàn dân như thế thì chỉ làm tốt được trong một thành phố thôi chứ? Nếu quốc gia có nhiều thành phố thì làm thế nào ? Hay là chia nhỏ quyền uy tối cao ra? Hay là, tập trung nó vào một thành phố chính, và để các thành phố khác đóng vai trò phụ đới ?
Xin trả lời: Không nên làm như thế.
Trước hết, quyền uy tối cao là duy nhất: nếu chia nhỏ ra nó sẽ bị phá hủy. Vả lại thành phố này không thể lệ thuộc vào thành phố khác; cũng như quốc gia này không thể lệ thuộc vào quốc gia khác một cách hợp pháp được. Thực chất của một cơ thể chính trị là ở sự hài hòa giữa phục tùng và tự do; chữ "Công dân" bao hàm sự thống nhất giữa hai khái niệm "thần dân" và "quyền lực tối cao" .
Lại xin trả lời thêm rằng: nhập nhiều thành phố vào một thành bang là điều không hay. Như vậy tự nhiên sẽ có nhiều bất lợi. Không nên lấy sự lạm dụng của nước lớn dể phản bác sự lạm dụng của nước nhỏ. Nhưng làm thế nào để nước nhỏ đủ sức chống lại nước lớn? Làm như ngày xưa các thành thị Hi Lạp đã chống lại các vua lớn, và như Hà Lan, Thụy Sĩ gần đây kháng cự triều đình Áo vậy.
Tuy nhiên, nếu có thể dứt khoát qui định biên giới của quốc gia thì còn có một biện pháp nữa là đừng quan tâm nhiều dân thủ đô, để chính phủ luân phiên đóng đô ở mỗi thành phố và lần lượt tập hợp quốc dân về họp quanh mỗi thành phố đó.
Hãy làm cho dân cư đông đúc lên, để dân chúng khắp nơi đều hưởng như nhau. Hãy đưa lại khắp nơi sự sống phồn vinh; như thế quốc gia vừa mạnh vừa được cai trị tốt. Xin nhớ rằng hiện nay thành phố giàu sang là nhờ bóc lột nông thôn, mỗi bức tường ở thành phố đều xây bằng mảnh vụn của các ngôi nhà đổ sụp của lòng dân. Mỗi lần thấy cất lâu đài ở thủ đô, tôi lại tưởng mình đang nhìn cả nước biến thành những túp lều nghèo khổ.
Khi dân chúng được tập hợp lại để thực hiện chức năng cơ quan quyền lực tối cao thì mọi thẩm quyền của chính phủ đều phải tạm đình chỉ; quyền hành pháp tạm gác lại; nhân cách của người công dân thấp nhất cũng thiêng liêng, bất khả xâm phạm như nhân cách của vi pháp quan cao cấp. Nhân dân trước đây được đại diện, bây giờ đã có mặt trên quảng trường, thì không cần ai đại diện cho họ nữa. Phần lớn các tranh luận huyên náo trong hội nghị toàn dân La Mã đều coi thường hoặc không biết đến nguyên tắc đại diện. Trong hội nghi toàn dân, các vị chấp chính quan chỉ là người chủ tọa cho dân chúng bàn cãi; các hộ dân quan chỉ là những diễn giả bình thường[12*]. Ở đây viện nguyên lão không có ý nghĩa gì cả.
Trong thời gian hội nghị toàn dân, người cầm đầu chính phủ thừa nhận hoặc buộc phải thừa nhận một thượng cấp hiện hữu.
Đây là thời điểm đáng lo nhất của vị nguyên thủ. Hội nghị toàn dân là dây cương cho cơ chế chính trị, là bộ hãm của chính phủ, đó là thời gian lo lắng của các thủ tướng, cho nên họ thận trọng, họ tranh biện, họ gây khó khăn, họ hứa hẹn, không từ một thủ đoạn nào để làm cho các công dân phải chán nản. Nếu các công dân trong hội nghị toàn dân tiếc lời nhẹ dạ, thích nhàn hạ hơn là tự do , thì họ sẽ không chống nổi sự cố gắng gấp bội của chính phủ; lúc đó kháng lực của chính phủ sẽ tăng lên không ngừng, quyền uy tối cao của toàn dân tắt dần; hầu hết các thành bang sẽ đổ sụp và suy vong trước kỳ họp.
Nhưng đứng giữa quyền uy tối cao của toàn dân là sự độc đoán của chính phủ, thường khi có xen vào một quyền lực trung gian mà ta phải bàn đến.
Đến một giai đoạn nhất đinh, công dân không coi việc phục vụ công cộng là việc chính của mình nữa. Họ thích đem tiền ra thuê người khác làm công vụ thay mình. Đó là lúc nhà nước suy thoái. Nếu phải ra trận, họ thuê người đi lính thay. Nếu phải tham dự hội đồng, họ chọn người đi họp thay. Cuối cùng dựa vào tiền bạc và tính lười biếng, họ sẽ có các đội quân để khống chế tổ quốc và có các đại diện để bán tổ quốc.
Sự rối rắm trong thương mại và nghệ thuật, lòng hám lợi, tính mềm yếu và thích tiện lợi đã chuyển các nghĩa vụ cá nhân thành tiền bạc. Người ta bỏ ra một phần thu nhập để lấy lại nhiều hơn . Hãy bỏ tiền ra, anh sẽ có xiềng xích để trói buộc người! Cái từ "Tài chính" đồng nghĩa với từ "Nô lệ" đấy ? Ngày xưa trong các thành bang người ta không biết đến từ này.
Trong một quốc gia hoàn toàn tự do, mọi công dân làm đủ mọi việc với bàn tay của chính mình, và không dùng đến tiền bạc đẽ thuê người khác làm thay. Chẳng những không thuê mướn, họ còn bỏ tiền ra để được tự mình tham gia làm nghĩa vụ.
Tôi đang đi khá xa ý kiến chung. Tôi cho rằng hình thức diêu dịch ngày xưa ít trái ngược với tự do hơn là hình thức mua bán, thuê mướn ngày nay. Quốc gia càng được tổ chức tốt, người công dân càng quan tâm đến việc chung hơn là việc riêng của họ (ND). Vả lại việc riêng cũng chẳng có bao lăm, vì phúc lợi công cộng đã bảo đảm phần lớn cuộc sống của mỗi cá nhân, nên người công dân không phải lo toan mấy tí cho cá nhân mình.
Trong một thành bang được cai trị tốt, người ta hồ hởi bay đến hội nghị toàn dân; trái lại trong các thành bang cai trị yếu, người ta không muốn cất bước đi họp, vì họ chẳng thích thú gì, chưa họp họ đã biết chắc rằng ý chí chung của nhân dân không được ai tôn trọng. Như vậy, trong thành bang xấu, mọi người đều bị bắt vào việc riêng để chăm lo lấy bản thân mình.
Luật tốt khiến cho các hội nghi toàn dân bàn nên việc tốt. Luật xấu thì hội nghị toàn dân chỉ dẫn đến chỗ tồi tệ.
Một khi có người bàn về việc nước mà nói: "Mặc kệ nó, can gì đến tôi", thì lúc đó có thể coi là đất nước không còn nữa.
Lòng yêu nước nguội dần, lợi ích cá nhân nhao lên, quốc gia bị dàn trải ra, các cuộc chinh phạt, các vụ nhũng lạm của chính phủ, tất cả những cái đó khiến cho người ta nghĩ đến việc chỉ định đại biểu thay mặt dân chúng để dự các hội nghi quốc gia. Ở một số nước, người ta gọi lớp đại biểu dân chúng là "thứ dân". Như vậy lợi ích tư nhân được đặt lên hàng đầu và hàng hai, lợi ích công cộng bị đẩy xuống hàng thứ ba.
Chủ quyền tối cao của toàn dân là không thể dùng người đại diện được, do đó nó cũng không thể bị xóa bỏ; nó nằm ngay trong ý chí của toàn dân, là ý chí chung thì không ai nói thay được. Nó là thế này, hay là thế khác chứ không chế ở dạng trung gian. Các đại diện nhàn dân không phải và không thể là người thay mặt nhân dân được; họ chỉ có thể là những ủy viên chấp hành, chứ không thể thay mặt nhân dân để kết luận một vấn đề gì dứt khoát. Mọi đạo luật mà dân chúng chưa trực tiếp thông qua đều vô giá trị, không thể gọi là luật được.
Nhân dân Anh tưởng mình là tự do; thật ra họ lầm to. Họ chỉ tự do trong khi đi bầu các đại biểu nghị viện mà thôi; bầu xong đại biểu họ trở lại là nô lệ, không còn là cái thá gì nữa. Trong những ngày tự do ngắn ngủi đó, cái quyền tự do họ được dùng thật xứng với cái mất tự do phải chịu sau đó.
Tư tưởng "đại biểu' là tư tưởng hiện đại, nó nảy sinh từ chính phủ phong kiến, một thứ chính phủ bất công, mơ hồ, trong đó tính cách con người bị thoái hóa, danh hiệu con người bị xỉ vả.
Trong các nền cộng hòa cổ xưa, ngay chế độ quí tộc cũng thế, không bao giờ nhân dân phải dùng đại biểu; người ta không hề biết đến cái từ ngữ "đại biểu" ấy.
Ở La Mã, các hộ dân quan được coi trọng một cách thiêng liêng. Không ai nghĩ rằng họ dám xâm phạm chức năng của dân chúng. Ngay trong đám đông ít người có thể nhận mặt họ, họ cũng không bao giờ bỏ qua một cuộc biểu quyết toàn dân. Chỉ đến thời anh em Gracques (55) người ta mới phê phán các hộ dân quan. Thời ấy dân chúng thường huyên náo , gây lúng túng cho các hộ dân quan, có khi một số công dân leo lên cả mái nhà để bỏ phiếu cho bằng được.
Ở đâu luật pháp và tự do được đặt lên trên hết thì ở đấy không gặp trở ngại gì, mọi việc đều diễn ra đúng mức. Ở những nơi này, nhân dân có thể để cho các võ quan cận vệ làm những việc mà hộ dân quan không dám làm, vì dân chúng không sợ rằng các võ quan đó sẽ đại diện họ.
Tuy nhiên, cũng có lúc các hộ dân quan đại diện cho dân chúng. Muốn hiểu điều này chỉ cần liên tưởng đến trường hợp chính phủ đại diện cho cơ quan quyền lực tối cao.
Luật chỉ là sự công bố của ý chí toàn dân, cho nên trong quyền lực lập pháp không ai có thể đứng ra thay mặt toàn dân để làm ra luật. Nhưng trong quyền lực hành pháp thì có thể và phải có người đại diện cho dân chúng: vì quyền hành pháp chỉ là sự ứng dụng luật mà thôi.
Xem thế đủ biết rằng, nếu phân tích kỹ mọi việc, ta sẽ thấy rất ít quốc gia có luật chân chính. Thời cổ La Mã, các hộ dân quan không có quyền hành pháp, không bao giờ được đại diện cho dân chúng với quyền hạn của chức vụ mình. Chỉ khi nào hộ dân quan nắm lấy một phần chức vụ của chủ tịch viện nguyên lão thì mới có thể đại diện cho dân .
Ở Hi Lạp, việc nào dân chúng phải giải quyết thì dân chúng tự làm lấy hết. Dân thường họp luôn trên quảng trường. Ở đây khí hậu dịu mát, con người không tham lam, các nô lệ làm việc của họ; việc chính của công dân là thực hiện tự do của mình, không có lợi thế ngang nhau làm sao nô lệ và công dân có thể hưởng quyền ngang nhau được ?
Nước nào khí hậu khắc nghiệt thì phải có nhiều nhu cầu hơn[13*]. Ở xứ lạnh mỗi năm mất sáu tháng không dùng được quảng trường để hội họp. Tiếng nói khàn khàn của dân xứ lạnh khó mà vang lên ở ngoài trời cho nên người ta quan tâm nhiều đến thu nhập hơn là tự do, người ta sợ túng thiếu hơn là sợ cảnh nô lệ.
Thế nào? chỉ có thể duy trì được tự do nhờ vào sự hầu hạ của nô lệ ư? Có lẽ thế. Hai cái thái quá gặp nhau mà! Trên đời này cái gì mà không có trở ngại; và xã hội dân sự là nơi có nhiều trở ngại nhất. Có những cảnh ngộ mà người ta muốn bảo vệ tự do của mình thì phải xâm phạm tự do của người khác. Người công dân được hoàn toàn tự do thì người nô lệ phải hoàn toàn nô lệ. Đó là cảnh huống của thành bang Sparte. Ngày nay, ở các dân tộc hiện dại, các bạn không có nô lệ thì các bạn phải làm nô lệ; các bạn phải đem tự do của mình bù vào cho người nô lệ mà bạn thiếu. Khoe khoang cái hay của các bạn ngày nay là không dùng nô lệ cũng chẳng ích gì; tôi thấy đó chẳng phải là nhân đạo mà là hèn nhát!
Nói như trên, không phải tôi nghĩ rằng cần có người nô lệ, hoặc tôi cho chế độ nô lệ là thỏa đáng đâu. Tôi đã từng chứng minh điều ngược lại. Ở đây tôi chỉ phân tích vì sao các dân tộc hiện đại tưởng mình là dân tộc tự do thì có chế độ đại diện, mà các dân tộc cổ xưa lại không cần đến người đại diện. Dù sao, khi một dân tộc tự đặt cho mình là những người đại diện thì dân tộc ấy đã hết tự do, không còn tự do nữa.
Xem xét kỹ các vấn đề trên, tôi thấy rằng từ nay về sau, muốn cho cơ quan quyền lực phát huy được tác dụng thì thành bang phải thật là nhỏ bé. Nhưng nếu thành bang quá nhỏ thì nó sẽ bị thôn tính mất thôi.
Sau đây tôi sẽ trình bày[14*] muốn kết hợp sức mạnh bề ngoài của một dân tộc lớn với chính sách dễ dãi và trật tự hoàn hảo của một quốc gia nhỏ bé thì phải làm như thế nào.
Một khi đã thiết lập xong quyền lập pháp hoàn chỉnh, cần thiết lập cả quyền hành pháp. Những điêu luật dùng để thiết lập quyền hành pháp không mang tính chất như luật cơ bản, và tự nhiên là quyền hành pháp tách biệt với quyền lập pháp.
Nếu như cơ quan quyền lực tối cao (tức lập pháp) có thể nắm cả quyền hành pháp, thì luật và hoạt động thực tế sẽ trùng hợp nhau đến mức không phân biệt được nữa, và cơ thể chính tri sẽ bị biến chất, phong bao lâu sẽ làm mồi cho bạo lực chống lại bản thân nó.
Khế ước xã hội đã qui định mọi công dân đều bình đẳng; cho nên điều mà mọi người phải làm thì mọi người đều có quyền bảo nhau làm; trái lại không ai có quyền buộc người khác làm điều mà tự mình không làm. Thế mà cơ quan quyền lực tối cao lại có quyền ra lệnh cho thủ tướng thành lập chính phủ, cái quyền này thật là cần thiết để làm cho cơ thể chính tri tồn tại và hoạt động.
Nhiêu người quả quyết rằng điều khoản thành lập chính phủ là một khế ước giữa dân chúng với các thủ lĩnh mà họ cử ra, khế ước này qui định một bên phải điều khiển, một bên phải phục tùng. Tôi chắc rằng rồi người ta sẽ thấy đó là một kiểu ký kết kỳ cục. Ta hãy xem quan điểm trên có đứng vững được không.
Trước hết, quyền uy tối cao mà bị sửa đổi thì nhất định sẽ bị xóa bỏ. Nếu hạn chế nó tức là phá hủy nó. Nếu cơ quan quyền lực tối cao còn đặt ra một cấp trên cho mình nữa thì thật là trái khoáy và mơ hồ. Tự buộc mình phải phục tùng một ông chủ tức là tự đặt mình trở lại tư thế tự do hoàn toàn.
Hơn nữa, bản ký kết giữa nhân dân với một số người nào đó sẽ chỉ là một điều khoản cá biệt, nó không thể là luật được, không thể là hành vi của chủ quyền tối cao được, bản ký kết đó không phải là khế ước hợp thức .
Ta lại thấy rằng hai bên ký kết bản khế ước bất hợp thức này sẽ tự đặt mình dưới qui luật thiên nhiên khác với mọi cung cách dân sự, chẳng bên nào bảo lĩnh phần trách nhiệm của mình đối với bên kia; ai nắm quyền lực, kẻ ấy sẽ làm chủ trong việc thực hiện khế ước; hắn ta sẵn sàng buộc đối phương ký một điều khoản: Tôi cho ông mọi thứ mà tôi có, với điều kiện ông sẽ trả tôi cái gì mà ông muốn trả.
Trong một quốc gia chỉ có một công ước. Đó chính là công ước kết hợp nhau lại thành xã hội. Chỉ có một công ước đó thôi, nó gạt bỏ mọi công ước khác (ND). Ta không thể nghĩ tới một thứ khế ước công cộng nào vi phạm bản khế ước duy nhất này.
Nên hiểu điều khoản qui định việc thành lập chính phủ như thế nào? Trước hết, tôi thấy điều khoản này là một điều khoản hỗn hợp, bao gồm cả hai điều khoản khác: chế định ra luật và thi hành luật.
Với điều khoản chế định ra luật, cơ quan quyền lực tối cao qui đinh cơ cấu chính phủ theo một hình thức nào đó. Điều khoản này là một đạo luật.
Với điều khoản thứ hai (thi hành luật), nhân dân sẽ cử ra các thủ lĩnh trong chính phủ. Việc cử người này chỉ là một nghị định cụ thể chứ không phải đạo luật thứ hai. Nhưng nó chính là sự nối tiếp của đạo luật trên; đó là chức năng của chính phủ .
Điều đó hiểu ở đây là làm thế nào mà có được một nghi định của chính phủ khi bản thân chính phủ chưa tồn tại; làm thế nào mà nhân dân lại có thể trở thành thủ tướng hoặc pháp quan trong trường hợp nào đó.
Từ điều này ta lại phát hiện thêm một đặc điểm kỳ lạ của cơ thể chính trị là nó có thể hòa hợp được những biện pháp bề ngoài có vẻ trái ngược nhau. Thể hiện đặc điểm này có thể chuyển hoá từ quyền lực tối cao thành chế độ dân chủ mà không để lộ ra một nét thay đổi nào; trong mối quan hệ giữa mọi người với mọi người, công dân trở thành pháp quan, chuyển điều khoản tổng quát ra thành điều khoản cụ thể, chuyển từ điều khoản chế định luật sang điều khoản thi hành luật.
Việc chuyển hóa quan hệ như trên không phải là điều suy diễn ngoắt ngoéo, mà đã có tiền lệ trong thực tế. Ở nước Anh, hàng ngày Hạ viện chuyển thành Ủy ban để dễ bàn cãi công việc, rồi chuyển thành Tiểu ban của Triều đình tối cao, mà trước đó Hạ viện đã đóng vai trò như thế. Như vậy Hạ viện tự đặt mối liên hệ với chính mình với tính cách là thứ dân nghị viện khi thì làm việc như một ủy ban, khi thì làm việc như một Tiểu ban.
Đây là điều lợi thế riêng cho chính phủ dân chủ. Chính phủ có thể được thành lập chỉ bằng một nghị định giản đơn theo ý chí toàn dân; chính phủ lâm thời ra đời và được chấp nhận. Sau đó cơ quan quyền lực tối cao ban hành một đạo luật chính thức thành lập chính phủ . Mọi điều trong quá trình này đều hợp với qui tắc. Không thể thành lập mọi chính phủ hợp pháp nào mà không vận dụng các nguyên lý đã nêu ở trên.
Từ những điều phân tích trên, có thể khẳng đinh rằng điều khoản thành lập chính phủ không phải là khế ước mà là một đạo luật, như đã khẳng đinh ở chương XVI. Những người được ủy thác nắm quyền hành pháp không phải là ông chủ nhân dân mà chỉ là những công chức. Dân chúng có thề cất nhắc hay bãi miễn họ; họ không được phản kháng mà chỉ có phục tùng. Khi thực hiện chức năng được quốc gia giao phó chính là họ làm nghĩa vụ công dân mà không có quyền đặt điều kiện với nhân dân.
Nếu nhân dân phải lập ra một chính phủ quân chủ truyền ngôi trong giòng họ hoặc một chính phủ quí tộc truyền chức theo hạng bậc công dân, thì nhân dân vẫn không bị ước thúc gì cả. Các hình thức chính phủ đó chỉ là hình thức nhất thời do dân chúng lựa chọn; khi nào dân thích một hình thức khác thì họ sẽ thay đổi đi.
Thật ra những lần thay đổi hình thức chính phủ như vậy đều nguy hiểm. Chỉ nên thay đổi chính phủ khi nó không thể dung hòa với lợi quyền chung. Thận trọng như thế chỉ là vấn đề phương châm hành động chứ không phải là qui tắc pháp luật . Nước nhà không có nghĩa vụ phải trao dân quyền cho các thủ lĩnh và trao binh quyền cho các tướng lĩnh.
Thật ra, cũng khó mà theo đúng thủ tục qui định để phân biệt hành vi bình thường chính đáng với hành động phản kháng om sòm, phân biệt ý chí chung của toàn dân với tiếng hò la của bọn nghịch đảng. Chính vì thế mà trong trường hợp gay go dễ gây hiềm thù, người ta phải làm đúng theo luật, chỉ cho phép làm những điều mà luật pháp không ngăn cấm. Và cũng chính vì thế mà thủ tướng chinh phủ giành được lợi thế để giữ nguyên quyền lực . Ông ta có thể cứ chiếu theo luật mà hành động bất chấp dư luận nhân dân, mà nhân dân không thể nói là ông ta lạm quyền. Thủ tướng chính phủ có thể nói là mình sử dụng quyền hạn theo đúng luật pháp, thật ra ông ta tìm cách mở rộng quyền lực. Ông viện cớ "Cần cho dân chúng nghỉ ngơi" để kéo dài thời hạn triệu tập hội nghi toàn dân, chỉnh đốn trật tự. Ông thích cho người ta im lặng, tìm cách ngăn cản ai phá vỡ sự im lặng đó. Hoặc ông cố tạo một cái gì bất thường làm cho người ta sợ sệt rồi mượn cớ đó mà trừng phạt những ai dám nói năng, phê phán .
Các ông đại pháp quan La Mã ngày xưa, vốn chỉ được bầu ra hàng năm, nhưng họ xin kéo dài thêm một năm, rồi âm mưu kéo dài mãi mãi thời hạn cầm quyền bằng cách cấm các cuộc họp toàn dân. Cũng bằng biện pháp dễ dãi này, các thứ chính phủ trên đời, một khi nắm được quyền lực công cộng, đều tìm cách lạm dụng, thoán đoạt quyền lực tối cao của toàn dân.
Những cuộc hội nghị định kỳ mà tôi nói trên kia chính là để ngăn chặn, đẩy lùi tai họa cướp quyền như thế, nhất là loại hội nghị định kỳ không cần đến thủ tục triệu tập chính thức. Có như vậy, các vị thủ tướng chính phủ mới không thể cấm đoán hột nghị toàn dân. Nếu cấm tức là họ công nhiên tự thú nhận mình vi phạm luật, nghịch với quốc dân.
Mở hội nghị toàn dân như thế là nhằm mục đích bảo vệ hiệp ước xã hội. Trong hội nghị toàn dân nhất thiết phải nêu hai vấn đề:
Một là : Toàn dân có muốn giữ nguyên hình thức chính phủ hiện hữu hay không.
Hai là : Nhân dân có vừa lòng với sự cai trị của những người hiện đang được ủy thác hay không. Trên kia tôi đã chứng minh, và bây giờ tôi lại giả định điều này: Trong một nước không có đạo luật cơ bản nào là không thể bãi bỏ. Ngay cả công ước xã hội cũng có thể bãi bỏ. Nếu toàn thể công dân họp lại cùng đồng lòng bãi bỏ công ước cũ thì nó nhất định bị bãi bỏ một cách hợp pháp. Grotius tính dẫn cả trường hợp mỗi người công dân có quyền từ bỏ quốc gia mình, giành lại quyền tự do thiên nhiên và tài sản của mình rồi bỏ đi sang một nước khác. Điều mà một người làm được thì toàn dân họp lại tất nhiên phải làm được.
[Chương trước] [Mục lục] [Chương tiếp theo]
[1*]. tỉnh trưởng tỉnh Pozenenie, quận công xứ Lorraine, thân sinh ra vua Tây Ban Nha.
[2*].Ngày xưa người ta dùng từ "tối ưu" (optimate) không phải với nghĩa "hay hơn cả" mà với nghĩa "mạnh hơn cả".
[3*].Điều rất quan trọng là phải dùng luật để điều chỉnh hình thức bầu cử pháp quan. Nếu để mặc cho vị nguyên thủ chọn người thì không tránh khỏi rơi vào thể loại chính phủ quí tộc gia truyền, giống như nền cộng hòa ở Venise và Berne. Nền cộng hòa Venise từ lâu đã thành một quốc gia tan rã: còn nền cộng hòa Berne thì vẫn duy trì được nhờ sự khôn khéo của vị trượng lão; đó là một ngoại lệ vẻ vang nhưng khá nguy hiểm.
[4*]. Machiavel là một người lương thiện, một công dân tốt. Nhưng ông bị trói buộc vào gia đình Médicis (47). Do sức ép của quốc gia mà ông phải ngụy trang lòng yêu tự do của mình. Trong cuốn sách "Ông Hoàng", ông chọn một tên thật đáng ghét làm nhân vật chính. Chỉ một điều đó đủ chứng tỏ ý tứ kín đáo của ông. Các phương ngôn ông nêu ra trong sách "Ông Hoàng" trái ngược hẳn với những điều ông viết trong tập: "Bài giảng về Titeux Lives" và tập "Lịch sử xứ Florence". Điều đó chứng tỏ rằng các bạn đọc của nhà chính khách sâu sắc này chỉ là những người hời hợt và hư hỏng. Triều đinh La Mã đã cấm đọc sách của ông. Tôi tin rằng ông đã miêu tả cái triều đình ấy thật rõ nét.
[5*]. xem Plutarque: "Danh ngôn các vua chúa và tướng lĩnh" - Mục 22.
[6*]. in oivili (Nói theo kiểu dân sự- ND)
[7*]. xem Tacite: "Lịch sử", t.I - tr.16 .
[8*]. Điều này trái với điều tôi đã trình bày ở trên (Chương 9- Quyển 2) về những điều bất lợi của một nước lớn. Đó là lúc phân tích quyền uy của chính phủ đối với các thành viên chính phủ. Còn ở đây nói về sức mạnh cuả chính phủ dể chống lại dân chúng; chính phủ có điểm tựa để đàn áp nhân dân ở xa, chứ không phải để đối phó trực tiếp với các thành viên chính phủ. Đòn bẩy dài chỉ mạnh đối với điểm xa, mà yếu đối với điểm gần.
[9*]. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua đủ chứng minh nguyên tắc phát triển nhân chủng là nguyên tắc thỏa dáng nhất. Người ta đã từng ca ngợi quá mức các nước văn hoá nghệ thuật phát triển, mà không đi sâu vào đối tượng kín đáo của văn hoá, không nhìn thấy những hậu quả tai hại của nó; idque apud imperitos humanites vocabatur, quum parrs dervitutis caset (Câu la tinh có nghĩa là: Bọn ngu xuẩn cũng có trình độ nhất định do chúng học được truớc khi bị người ta nô dịch- Xem Tacite- Sách Agricole, Tập 1- ND)
[10*].Sự hình thành chậm chạp và quá trình phát triển của nền cộng hôa Venise (Venise - nước cộng hoà trong dạng chính phủ quí tộc, bao gồm nhiều đảo nhỏ và đầm lầy vùng biển Adriatique thời trung cổ rất phồn vinh, ảnh hưởng lớn đến các xứ Dalmatie, Lombardie và Albanie v.v... - ND) trong các đầm lầy của nó là một ví dụ đáng kể về sự sa đọa từng bước liên tục như thế. Điều đáng ngạc nhiên là hơn mười hai thế kỉ người Venise cứ ở nguyên trạng giai đoạn thứ hai (tức giai đoạn chính phủ quí tộc - ND); giai đoạn này bắt đầu từ Serra diconsiglio (thời "đóng cửa nghị viện" - ND) năm 1198. Còn các vị quận công thời cổ từng bị chê trách, ngay cả Squittinib della liberta Veneta (Chữ la tinh có nghĩa là tiếng nói giành tự do cho Vénétie - ND) cũng nói thế. nhưng thật ra các vị quận công đó chưa hề nắm quyền lực tối cao ở Venise.
[11*].Omnes enim et habentur et ducultur tyrani qui protestate utuntur perpetua in ea civitate quoe libertate usa est (Corn.Nep.in Mitiad n.8) (Những kẻ tự xưng và bị gọi là độc tài là kẻ cố tình nắm quyền trong nước mãi mãi để hứng thú tự do cho mình - Coocneli Nepot, bài số 8).
[12*]. Trong nghị viện nước Anh ngày xưa, người ta cũng dùng danh từ tương tự như thể. Chức danh giống nhau, nên chấp chính quan và hộ dân quan thường khi mâu thuẫn nhau. Mặc dầu như vậy, trong khi hội nghị toàn dân đang họp, thẩm quyền của họ đều bị tạm gác cả.
[13*]. Ở xứ lạnh mà dùng những thứ xa hoa, mềm mại của xứ nóng phương Đông thì chẳng khác nào đeo xiềng xích; lại còn bị lệ thuộc hơn người phương Đông nữa kia.
[14*]. Đây là vấn đề mà tôi định nghiên cứu trong phần sau của tác phẩm này. Khi phân tích các mối quan hệ bên ngoài tôi sê phải bàn tới hình thức liên bang. Đó là một vấn đề mới mà các nguyên lý chưa được vạch sẵn.