F. Engels
Nguồn gốc của gia đ́nh
IV
THỊ TỘC HI LẠP
Từ thời
tiền sử, người Hi Lạp, cũng như người Pelasgians và những dân đồng chủng khác, đă
được tổ chức theo kết cấu như của người châu Mĩ: thị tộc, bào tộc, bộ lạc, liên
minh bộ lạc. Bào tộc có thể không có, như ở người Doric; liên minh bộ lạc th́
có thể có nơi không có; nhưng ở mọi trường hợp, thị tộc vẫn là đơn vị. Khi
người Hi Lạp bước lên vũ đài lịch sử, họ đă ở ngưỡng cửa của thời văn minh; giữa họ với các bộ lạc châu Mĩ nói trên, có gần
trọn hai giai đoạn phát triển lớn, đó là khoảng cách mà người Hi Lạp ở thời đại
anh hùng đă bỏ xa người Iroquois. Thế nên thị tộc Hi Lạp không c̣n là thị tộc
tối cổ của người Iroquois nữa; vết tích của chế độ quần hôn* bắt đầu phai mờ rơ
rệt. Mẫu quyền đă nhường chỗ cho phụ quyền, nghĩa là của cải tư hữu tăng lên đă
chọc được lỗ thủng đầu tiên vào chế độ thị tộc. Lỗ thủng thứ hai là hậu quả tự
nhiên của lỗ thủng đầu. Khi đă có chế độ phụ quyền, tài sản của một phụ nữ thừa
kế giàu có phải chuyển cho người chồng, tức là chuyển cho một thị tộc khác; th́
cơ sở của mọi luật lệ thị tộc đă bị vi phạm, và trong trường hợp đó, người ta
không những cho phép mà c̣n bắt con gái lấy chồng trong thị tộc, để giữ tài sản
ấy trong thị tộc.
Theo
Grote (“Lịch sử Hi Lạp”1), thị tộc Athens nói riêng đă dựa vào những thiết chế
và tục lệ sau:
1. Những
ngày lễ tôn giáo chung, và độc quyền thờ cúng một vị thần riêng biệt, được coi
là ông tổ của thị tộc; với danh nghĩa đó, vị thần ấy được đặt một biệt hiệu
riêng.
2. Một
nghĩa địa chung (xem quyển “Eubulides” của Demosthenes).
3.
Quyền thừa kế lẫn nhau.
4.
Nghĩa vụ giúp đỡ, bảo vệ, hỗ trợ nhau chống lại bạo lực.
5.
Quyền và bổn phận kết hôn với nhau trong nội bộ thị tộc, ở một số trường hợp
nhất định, đặc biệt là gái mồ côi và phụ nữ thừa kế.
6. Một
khối tài sản chung, một viên trưởng thị tộc riêng và một viên thủ quĩ riêng.
Tiếp
đó, vài thị tộc hợp thành bào tộc, nhưng ít chặt chẽ hơn; tuy nhiên, cả ở đây
nữa, ta cũng thấy những quyền lợi và nghĩa vụ tương tự; nhất là việc có chung
các nghi lễ tôn giáo nhất định, và quyền báo thù khi có thành viên bị giết. Tương
tự, mọi bào tộc của một bộ lạc đều tiến hành những ngày lễ tôn giáo định ḱ chung, do
một trưởng bộ lạc (phylobasileus) - được bầu trong hàng ngũ quí tộc
(eupatridai) - chủ tŕ.
Đó là
điều Grote kể. Và Marx nói thêm: “Không thể nhầm được: qua thị tộc Hi Lạp,
người mông muội (ví dụ người Iroquois) hiện lên rơ ràng”. Khi nghiên cứu sâu
hơn, ta sẽ thấy ông càng không thể nhầm được.
Thật
thế, thị tộc Hi Lạp c̣n có những đặc trưng sau:
7. Ḍng
dơi được xét theo phụ quyền.
8. Cấm
kết hôn trong nội bộ thị tộc, trừ trường hợp phụ nữ thừa kế. Ngoại lệ này, và
việc đưa nó lên thành một điều luật, chứng tỏ rằng tục lệ xưa vẫn có hiệu lực.
Điều này được chứng minh hơn nữa bởi một nguyên tắc mà mọi người đều tuân thủ;
theo đó, người đàn bà khi đă lấy chồng th́ sẽ từ bỏ các lễ nghi tôn giáo của
thị tộc ḿnh, và tham gia các lễ nghi tôn giáo của thị tộc - cũng như bào tộc -
nhà chồng. Tục lệ này, và một đoạn văn nổi tiếng của Dicaearchus, cho thấy kết
hôn ngoài thị tộc như vậy là lệ thường; c̣n Becker, trong tác phẩm “Charicles”2
th́ thậm chí cho rằng: không ai được phép kết hôn trong thị tộc ḿnh.
9.
Quyền nhận người ngoài vào thị tộc. Việc này được thực hiện thông qua việc các
gia đ́nh nhận người ngoài làm con nuôi, nhưng phải có các nghi lễ công cộng, và
cũng chỉ trong trường hợp đặc biệt mới được.
10.
Quyền bầu cử và băi miễn các thủ lĩnh. Ta biết là mọi thị tộc đều có trưởng thị
tộc của ḿnh, nhưng không ở đâu qui định là chức đó được cha truyền con nối
trong những gia đ́nh nhất định. Cho đến cuối thời dă man, có thể vẫn chưa có lệ
thừa kế chức vụ [một cách nghiêm ngặt]; v́ lệ này không phù hợp với một xă hội mà
ở đó, người giàu và kẻ nghèo đều hoàn toàn có quyền b́nh đẳng trong thị tộc.
Không
chỉ Grote, mà cả Niebuhr, Mommsen và tất cả các sử gia cổ điển khác, đang
nghiên cứu thời cổ đại, đều không giải quyết được vấn đề thị tộc. Dù đều chỉ ra
chính xác nhiều đặc trưng của thị tộc, nhưng họ luôn coi đó là một tập đoàn gồm
nhiều gia đ́nh, thế nên họ không thể hiểu được bản chất và nguồn gốc của thị
tộc. Trong chế độ thị tộc, gia đ́nh không bao giờ và không thể là đơn vị tổ
chức, v́ chồng và vợ nhất thiết phải thuộc hai thị tộc khác nhau. Toàn bộ thị
tộc nằm trong bào tộc, toàn bộ bào tộc nằm trong bộ lạc; nhưng gia đ́nh th́ một
nửa là của thị tộc nhà chồng, một nửa là của thị tộc nhà vợ. Chính Nhà nước, về
công pháp, cũng không thừa nhận gia đ́nh; cho đến ngày nay, gia đ́nh chỉ tồn
tại trong tư pháp mà thôi. Trong khi đó, từ trước tới nay, toàn bộ lịch sử của
chúng ta đều bắt đầu từ cái giả định phi lí, đă trở thành bất khả xâm phạm, đặc
biệt từ thế kỉ XVIII, rằng: gia đ́nh cá thể - nó chưa chắc đă cổ hơn thời văn
minh - là cái hạt nhân, mà xă hội và Nhà nước dần kết tinh lại xung quanh nó.
Marx
nói thêm: “tiếp đó, ông Grote cũng nên chỉ ra rằng, dù người Hi Lạp đă truy
nguyên các thị tộc của họ từ thần thoại ra, nhưng chính các thị tộc đó lại cổ
hơn cái thần thoại do chính họ sáng tạo ra, với các vị thần và nửa thần của nó”.
Morgan
thích viện dẫn Grote v́ Grote không chỉ có uy tín mà c̣n là một nhân chứng đáng
tin. Tiếp theo, Grote nói rằng mỗi thị tộc Athens đều mang một tên riêng, lấy
từ tên một vị mà họ coi là thủy tổ của họ; rằng trước thời Solon, và cả sau
thời Solon nữa, khi không có di chúc, thường th́ những người cùng thị tộc
(gennetai) với người chết sẽ kế thừa tài sản của người này; rằng trong trường
hợp xảy ra án mạng, th́ trước hết là họ hàng của nạn nhân, rồi tới những người
cùng thị tộc, sau cùng là những người cùng bào tộc với người bị giết, có quyền
và nghĩa vụ truy tố hung thủ ra trước ṭa án:
“Tất cả
những ǵ ta biết về các luật lệ cổ nhất của Athens đều dựa trên sự phân chia
thành thị tộc và bào tộc” (Grote)
Việc
các thị tộc có ḍng dơi từ những tổ tiên chung đă gây ra nhiều điều nát óc cho
bọn “học giả philistine” (Marx). V́ dĩ nhiên là họ tŕnh bày những tổ tiên
chung ấy như những nhân vật thần thoại thuần túy, nên họ hoàn toàn không thể
giải thích được việc thị tộc đă nảy sinh như thế nào, từ các gia đ́nh riêng rẽ
và lúc đầu không có họ hàng với nhau; tuy rằng họ vẫn phải làm điều ấy, để giải
thích sự tồn tại của thị tộc theo cách nào đó. Thế là họ lập luận trong một cái
ṿng luẩn quẩn, với những câu nói vô nghĩa, không bao giờ vượt quá phát biểu
sau: phả hệ là chuyện bịa, nhưng thị tộc th́ có thật. Sau cùng, Grote nói
(những chữ trong ngoặc là của Marx):
“Chúng
ta rất ít nghe nói tới cái phả hệ đó, v́ nó chỉ được nhắc đến công khai trong
các trường hợp nhất định và đặc biệt long trọng thôi. Nhưng những thị tộc ít quan trọng hơn cũng có những nghi lễ tôn giáo
chung của họ (lạ lùng thật, ông Grote ạ!), một tổ tiên siêu nhân và phả hệ
chung, cũng như những thị tộc nổi tiếng (với các thị tộc
ít quan trọng hơn th́
quả là lạ, ông Grote ạ!). Hệ thống và cơ sở ư niệm (thưa đức ông, không phải
ideal, mà là carnal, tức là “xác thịt” ạ!) của mọi thị tộc đều giống nhau” (“Xă
hội Cổ đại”, do Morgan trích dẫn)
Marx tóm tắt câu trả lời của Morgan về vấn đề này như
sau: “Chế độ thân tộc tương ứng với thị tộc ở h́nh thức ban đầu - mà người Hi
Lạp, cũng như các dân khác, đều từng có h́nh thức đó - bảo đảm cho các thành
viên của thị tộc nhận biết được những quan hệ huyết tộc giữa họ với nhau. Họ đă
biết được từ khi c̣n nhỏ, thông qua cuộc sống thực tế - điều này rất quan trọng
với họ. Khi gia đ́nh cá thể xuất hiện, th́ điều đó đă trở nên lỗi thời. Cái tên
thị tộc đă tạo ra một phả hệ, so với nó th́ phả hệ của một gia đ́nh chẳng quan
trọng ǵ. Chính cái tên thị tộc mới đảm bảo rằng những người mang nó có chung
ḍng dơi; nhưng ḍng dơi thị tộc đă quá xa xưa, đến nỗi những thành viên của nó
không c̣n chứng minh được quan hệ thân tộc thực sự giữa họ với nhau nữa, trừ
một số trường hợp có tổ tiên chung cách đây chưa lâu. Cái tên đó là bằng chứng
không thể tranh căi được về huyết thống chung, trừ trường hợp nhận người ngoài
làm con nuôi. Ngược lại, việc thực tế phủ nhận mọi quan hệ thân tộc giữa các
thành viên thị tộc, à la Niebuhr và Mommsen - họ đă biến thị tộc thành một sản
phẩm thuần túy hư cấu và văn chương - chỉ xứng với các học giả ‘sống bằng tư
tưởng’, nghĩa là những con mọt sách chỉ ở trong pḥng ḿnh. V́ mối liên kết
giữa các thế hệ đă trôi vào quá khứ từ lâu, nhất là từ khi chế độ hôn nhân cá
thể bắt đầu xuất hiện, và v́ thực tế của quá khứ đă được phản ánh trong các
h́nh ảnh thần thoại; nên bọn philistine xu thời đă kết luận, và vẫn luôn kết
luận rằng phả hệ tưởng tượng đă tạo ra các thị tộc có thật!”
Cũng
như ở người châu Mĩ, bào tộc vốn là một thị tộc mẹ, đă tách thành vài thị tộc
con, rồi hợp nhất chúng lại, và thường chỉ ra rằng các thị tộc này có tổ tiên
chung. Như vậy, theo Grote,
“Mọi
thành viên đồng lứa của bào tộc Hekateus đều nhận một vị thần là ông tổ mười
sáu đời của ḿnh”
Vậy, những thị tộc của bào tộc đó quả đều là những thị
tộc anh em. Trong tác phẩm của Homer, bào tộc c̣n xuất hiện với tư cách một đơn
vị quân sự, ở một đoạn văn nổi tiếng, khi Nestor khuyên Agamemnon: hăy sắp xếp
binh sĩ theo bộ lạc và bào tộc; để bào tộc này giúp đỡ bào tộc kia, bộ lạc này
giúp đỡ bộ lạc kia3. Bào tộc cũng có quyền và nghĩa vụ báo thù cho thành viên bị
giết hại, tức là thời xưa nó cũng có nghĩa vụ trả nợ máu. Hơn thế nữa, nó c̣n
có những đền thờ và ngày lễ chung; thực tế là toàn bộ thần thoại Hi Lạp - từ
truyền thống thờ cúng tự nhiên của người Arya cổ mà có - đều do thị tộc và bào
tộc quyết định, cũng như đă phát sinh trong ḷng thị tộc và bào tộc. Bào tộc
cũng có một thủ lĩnh (phratriarchos) và theo Fustel de Coulanges th́ nó c̣n có
một hội đồng nữa. Hội đồng có quyền thông qua các quyết định bắt buộc, quyền xử
án và quản lí hành chính. Ngay cả Nhà nước sau này, không để ư tới thị tộc,
cũng để bào tộc đảm nhiệm một số chức năng hành chính công cộng.
Mấy bào
tộc có họ hàng với nhau hợp nhất thành bộ lạc. Ở Attica trước kia có bốn bộ
lạc, mỗi bộ lạc gồm ba bào tộc, mỗi bào tộc gồm ba mươi thị tộc. Sự cân đối hoàn toàn ấy
giả định rằng đă có sự can thiệp cố ư vào cái trật tự được h́nh thành một cách tự
nhiên. Can thiệp như thế nào, vào lúc nào, và v́ sao, th́ lịch sử Hi Lạp không
nói đến; và bản thân người Hi Lạp chỉ biết đến lịch sử của họ từ thời đại anh
hùng4 trở đi mà thôi.
V́
người Hi Lạp sống tập trung trên một lănh thổ tương đối nhỏ, nên sự khác biệt
giữa các thổ ngữ cũng không phát triển như ở các vùng rừng núi bao la của châu
Mĩ, nhưng cũng chỉ có những bộ lạc dùng chung một thổ ngữ chính mới có thể hợp
thành một chỉnh thể lớn mà thôi; và ngay cả miền Attica bé tẹo cũng có thổ ngữ
riêng, sau này do được dùng phổ biến trong văn xuôi mà trở thành thổ ngữ thống
trị.
Trong
các bài thơ của Homer, ta thấy hầu hết những bộ lạc Hi Lạp đă liên kết thành
các bộ tộc nhỏ; nhưng trong đó, thị tộc, bào tộc và bộ lạc vẫn hoàn toàn độc
lập. Họ sống trong những đô thị có tường thành bao bọc, dân số tăng lên cùng
với sự phát triển của chăn nuôi, trồng trọt và của nghề thủ công mới ra đời. Sự
chênh lệch về của cải do đó cũng lớn hơn, cùng với sự mở rộng của thành phần
quí tộc trong nền dân chủ nguyên thủy cổ xưa. Các bộ tộc nhỏ đánh nhau liên
miên để chiếm những vùng đất tốt nhất, và dĩ nhiên là cả chiến lợi phẩm; việc
dùng tù binh làm nô lệ đă là một thể chế được công nhận.
Bấy
giờ, thể chế của các bộ lạc và bộ tộc nhỏ đó là như sau:
1. Hội
đồng (boule) là cơ quan quyền lực thường trực. Lúc đầu, có lẽ nó gồm tất cả các
trưởng thị tộc; về sau, khi có quá nhiều trưởng thị tộc, th́ là một số người
được bầu ra trong số họ, đó là cơ hội để mở rộng và củng cố thành phần quí tộc.
Chính Dionysius5 đă mô tả hội đồng ở thời
đại anh hùng là nó bao gồm các nhà quí tộc (krastitoi). Hội đồng có quyền ra
quyết định tối cao về những việc quan trọng. Aeschylus6 từng nói về việc hội đồng thành phố Thebes ra một quyết
định có ư nghĩa tối hậu trong hoàn cảnh bấy giờ: đó là tiến hành an táng trọng
thể cho Eteocles, nhưng lại vứt xác Polynices cho chó ăn. Khi Nhà nước xuất
hiện, hội đồng này biến thành Viện nguyên lăo.
2. Đại
hội nhân dân (agora). Ở người Iroquois, ta đă thấy nhân dân, cả nam lẫn nữ,
đứng xung quanh cuộc họp của hội đồng, lần lượt tham gia bàn luận, để tác động
đến quyết định của hội đồng như thế nào. Ở người Hi Lạp thời Homer, th́ cái “ṿng
người đứng xung quanh” (Umstand) ấy - ta dùng một từ ngữ pháp lí của tiếng Đức
cổ - đă phát triển đến mức trở thành một đại hội nhân dân thường ḱ, giống như
trường hợp của người Germania nguyên thủy. Đại hội này do hội đồng triệu tập để
giải quyết một số vấn đề quan trọng, và mọi người đàn ông đều có quyền phát
biểu. Quyết định được thông qua bằng cách giơ tay (xem vở “Những thiếu nữ cầu
xin” của Aeschylus) hoặc hoan hô. Quyết định của đại hội là tối cao, v́ như
Schömann viết trong “Hi Lạp thời cổ”7,
“khi có
một công việc đ̣i hỏi sự tham gia của nhân dân, th́ Homer không chỉ ra một biện
pháp nào để buộc người dân phải thực hiện nếu họ không muốn”
V́ thời
đó, khi mà mọi thành viên nam giới trưởng thành của bộ lạc đều là chiến binh,
th́ vẫn chưa có một quyền lợi công cộng tách rời khỏi nhân dân, và có thể được
sử dụng để chống lại nhân dân. Nền dân chủ nguyên thủy hăy c̣n toàn thịnh, và
trước hết phải xuất phát từ đó để xét đoán về quyền lực và địa vị của hội đồng
cũng như của basileus.
3. Thủ lĩnh quân sự (basileus). Về điểm này, Marx b́nh
luận như sau: các học giả châu Âu, mà đa số đều mang thân phận đầy tớ, đă biến
basileus thành một ông vua, theo nghĩa ngày nay của từ đó. Morgan, là một người
Mĩ theo chủ nghĩa cộng ḥa, phản đối việc đó. Rất mỉa mai nhưng chính xác, ông
nói về Gladstone, người có giọng văn trơn tru, và về tác phẩm “Tuổi xuân của
thế giới”8 của ông này rằng:
“Ông Gladstone, dù đă tŕnh bày cho độc giả thấy những
thủ lĩnh quân sự của người Hi Lạp như những vua chúa và vương công, hơn nữa c̣n
nhét thêm vào đó những đặc trưng của các quí ông, th́ vẫn buộc phải thừa nhận: về
đại thể, h́nh như có một tập tục hay luật lệ đầy đủ về chế độ con trưởng thừa
kế, nhưng không thật rơ ràng” (“Xă hội Cổ đại”)
Ông Gladstone có lẽ cũng đồng ư rằng, một luật lệ mơ
hồ như vậy về chế độ con trưởng thừa kế có thể là “đầy đủ, nhưng không thật rơ
ràng”; theo kiểu có cũng như không.
Ở người Iroquois và những người Indian khác, ta đă thấy
việc thừa kế các chức vụ trong thị tộc nghĩa là thế nào rồi. Những người giữ
các chức đó đều được bầu ra, phần lớn là người trong thị tộc, tức là các chức
vụ đó được thừa kế trong phạm vi thị tộc. Theo thời gian, để thay thế các chức
vụ c̣n khuyết, người ta ưu tiên bầu những bà con gần nhất - như anh em trai,
hay con trai của chị em gái - trừ khi có lí do ǵ để loại bỏ người đó. Vậy ở
người Hi Lạp, khi chế độ phụ quyền thống trị, th́ việc chức vụ basileus thường được
truyền cho con trai người tiền nhiệm chỉ chứng minh rằng: có thể người con trai
đó được thừa kế thông qua một cuộc bầu cử của nhân dân; chứ không có bằng cớ về
việc thừa kế hợp pháp, không qua bầu cử. Ở người Iroquois và người Hi Lạp, những ǵ ta thấy chính là mầm mống đầu tiên của các
gia đ́nh quí tộc đặc biệt trong nội bộ thị tộc; và với người Hi Lạp, c̣n là mầm
mống đầu tiên của việc thế tập quyền lănh đạo, tức là chế độ quân chủ. Có thể
basileus của người Hi Lạp hoặc phải được nhân dân bầu ra, hoặc ít ra phải được
các cơ quan của nhân dân - hội đồng hoặc agora - xác nhận, cũng như trường hợp
của “vua” (rex) ở người La Mă.
Trong “Iliad”, Agamemnon - chủ tướng của các chiến sĩ
- không phải là ông vua tối cao của người Hi Lạp, mà là chỉ huy tối cao của một
quân đội liên minh, trước một thành thị bị bao vây. Khi bất đồng xảy ra giữa
những người Hi Lạp, th́ chính địa vị đó đă được Odysseus nói tới trong đoạn thơ
nổi tiếng này: “Đông người chỉ huy là tai họa, hăy để một người chỉ huy thôi”
v.v. (câu thơ nổi tiếng nói về vương quyền là do đời sau thêm vào). “Ở đây,
Odysseus không diễn giảng về một h́nh thức chính quyền, mà đ̣i hỏi sự phục tùng
đối với chỉ huy tối cao trong chiến trận. Ở người Hi Lạp, cả khi đang là một đội quân đứng trước thành Troy, th́
agora vẫn được tiến hành khá là dân chủ. Khi nói về việc phân chia tặng phẩm -
tức là chiến lợi phẩm - th́ Achilles luôn coi đó không phải là việc của
Agamemnon hay một basileus nào, mà là của ‘con cháu người Achaea’, tức là nhân
dân. Những từ như “được Zeus sinh ra”, “được Zeus nuôi dưỡng” không
chứng minh ǵ cả, v́ mỗi thị tộc đều là con cháu của một vị thần; và thị tộc của
người trưởng bộ lạc là con cháu của một vị thần ‘lớn hơn’, ở trường hợp này là
Zeus. Kể cả những người không có quyền tự do cá nhân, như anh chăn lợn
Eumaecus, cũng ‘thuộc ḍng dơi thần’ (dioi et theoi); và điều này được nói tới
trong “Odyssey”, tức là sau thời ḱ được nhắc đến trong “Iliad” rất lâu; cũng
trong “Odyssey”, danh hiệu anh hùng c̣n được phong cho anh chàng truyền lệnh
Mulius, và cho Demodocus, một người mù hát rong. Tóm lại, hội đồng và đại hội
nhân dân đi kèm với basileus, và từ basileia - được các tác gia Hi Lạp dùng để
chỉ cái gọi là ‘vương quyền’ trong thời Homer (đặc trưng chủ yếu của nó là
quyền chỉ huy quân đội) - chỉ có nghĩa là nền dân chủ quân sự mà thôi” (Marx).
Ngoài chức năng quân sự, basileus c̣n có nhiệm vụ tế
lễ và tư pháp nữa; các chức năng thêm ấy không thật rơ ràng, c̣n chức năng
chính th́ được người đó thực hiện với tư cách đại biểu tối cao của bộ lạc hay
liên minh bộ lạc. Quyền lực quản lí dân sự th́ không thấy chỗ nào nói đến cả, nhưng
h́nh như basileus là một thành viên mặc nhiên của hội đồng. Như vậy, về mặt từ
nguyên th́ dịch basileus thành “vua” là rất đúng, v́ từ “vua” (tiếng Anh là
king, tiếng Đức là König hoặc Kuning) là do từ Kuni, Künne - nghĩa là “thủ lĩnh
thị tộc” - mà ra. Nhưng basileus của Hi Lạp cổ lại hoàn toàn không phù hợp với
từ “vua” hiểu theo nghĩa ngày nay. Thucydides gọi hẳn basileia thời xưa là
patrike, nghĩa là “do thị tộc mà ra”, và nói rằng basileia có các quyền lực được qui định nghiêm ngặt, tức là có giới hạn. Và
Aristotle cũng nói basileia ở thời đại anh hùng là quyền chỉ huy những người tự
do, c̣n basileus là thủ lĩnh quân sự, quan ṭa và tăng lữ tối cao; tức là người
này không có quyền cai trị, hiểu theo nghĩa sau này của tiếng đó.1*
Vậy,
trong thể chế của Hi Lạp ở thời đại anh hùng, ta thấy tổ chức thị tộc cổ vẫn
c̣n sức sống. Nhưng ta cũng thấy tổ chức đó đă bắt đầu tan ră: chế độ phụ
quyền, với việc để lại tài sản cho con cái, điều này tạo điều kiện cho sự tích
lũy của cải trong nội bộ gia đ́nh, và gia đ́nh biến thành thế lực đối lập với
thị tộc; sự chênh lệch về tài sản ảnh hưởng tới thể chế, với việc h́nh thành
những mầm mống đầu tiên của quí tộc thế tập và vương quyền thế tập; chế độ nô
lệ, lúc đầu chỉ áp dụng với tù binh, nhưng đă mở ra triển vọng nô dịch hóa cả
những người cùng bộ lạc, thậm chí cùng thị tộc; chiến tranh xưa kia giữa các bộ
lạc giờ bị tha hóa thành cuộc cướp bóc có hệ thống trên đất liền và trên biển,
để chiếm đoạt gia súc, nô lệ, và báu vật, tức là nó đă trở thành một nguồn của
cải thường xuyên; tóm lại, sự giàu có được ca tụng và tôn trọng như là điều tốt
đẹp nhất, và cái trật tự thị tộc cổ bị lạm dụng để bào chữa cho việc cướp đoạt
của cải bằng bạo lực. Chỉ c̣n thiếu một thứ: đó là một cơ quan, không chỉ bảo
vệ những của cải mà cá nhân có được - khỏi sự xâm phạm của truyền thống cộng
sản chủ nghĩa ở chế độ thị tộc, không chỉ thần thánh hóa tài sản tư hữu - là
cái trước kia hầu như không có giá trị, không chỉ tuyên bố rằng sự thần thánh hóa ấy là
mục đích tối cao của cả xă hội loài người; mà c̣n khiến cả xă hội thừa nhận những h́nh thức kiếm chác
tài sản mới, tức là thừa nhận sự tích lũy của cải ngày càng nhanh. Nó không chỉ
kéo dài măi măi việc phân chia xă hội thành các giai cấp, sự phân chia này lúc
đó mới đang h́nh thành; mà c̣n kéo dài măi măi quyền bóc lột, cũng như quyền
thống trị, của giai cấp có của đối với giai cấp không có của.
Và cơ quan đó đă xuất hiện. Nhà nước đă được phát minh
ra.
Chú thích của Engels
1* Hệt như basileus Hi Lạp, thủ lĩnh quân sự ở
người Aztec cũng bị biến thành một vương công hiện đại. Lần đầu tiên Morgan đă
tiến hành một phân tích có tính lịch sử phê phán, đối với những câu chuyện mà người Tây Ban Nha kể; lúc đầu toàn
là ngộ nhận và cường điệu, về sau th́ toàn là dối trá. Ông chứng minh rằng
người Mexico đang ở giai đoạn giữa của thời dă man, dù có phát triển hơn người
Indian Pueblo ở New Mexico, và thể chế xă hội của họ - trong chừng mực những
câu chuyện sai lạc kia có thể giúp ta nhận ra được - cũng phù hợp với giai đoạn
đó: có một liên minh gồm ba bộ lạc, nó nô dịch các bộ lạc khác và bắt họ cống
nạp cho ḿnh; liên minh được quản lí bởi một hội đồng và một thủ lĩnh quân sự,
vị thủ lĩnh quân sự này đă được người Tây Ban Nha biến thành một “hoàng đế”.
Chú thích của người dịch
1 G. Grote: "A history of Greece; from the earliest period to the close of the generation contemporary with Alexander the Great"; 1846-1856.
2 W.A. Becker: "Charicles: Bilder altgriechischer Sitte, zur genaueren Kenntniss des griechischen Privatlebens"; 1840.
3 Homer: "Iliad".
4 C̣n gọi là thời đại Homer, khoảng thế kỉ XII-IX trước công nguyên; là thời ḱ mà chế độ công xă thị tộc ở Hi Lạp tan ră, thay vào đó là xă hội có giai cấp.
5 Đây là nói tới Dionysius thành Halicarnassus.
6 Aeschylus: "Bảy tướng đánh thành Thebes".
7 G.F. Schömann: "Griechische Alterthümer"; 1855-1859.
8 W.E. Gladstone: "Juventus Mundi: The Gods And Men Of The Heroic Age"; Boston, 1869.
[Chương trước]
[Mục lục]
[Chương sau]