F. Engels
Nguồn gốc của gia đ́nh
IX
DĂ MAN VÀ VĂN MINH
Ta đă nghiên cứu sự tan ră của tổ chức thị tộc trong
ba ví dụ lớn riêng biệt: người Hi Lạp, người La Mă, và người Germania. Để kết
thúc, ta sẽ xem xét các điều kiện kinh tế chung đă phá hoại tổ chức thị tộc
ngay từ giai đoạn cao của thời dă man, và đă hoàn toàn thủ tiêu nó ở buổi đầu
của thời văn minh. Ở đây, ta sẽ cần bộ “Tư bản” của Marx không kém ǵ cuốn sách
của Morgan.
Ra đời từ giai đoạn giữa của thời mông muội, tiếp tục
phát triển ở giai đoạn cao của thời đó, thị tộc đă đạt mức cực thịnh ở giai
đoạn thấp của thời dă man, trong chừng mực các tài liệu gốc cho phép ta phán
đoán. Vậy, ta sẽ bắt đầu từ giai đoạn đó.
Ở đây, lấy người Indian châu Mĩ làm ví dụ, th́ ta thấy
chế độ thị tộc đă hoàn toàn phát triển. Một bộ lạc chia làm nhiều thị tộc, [thường
thường là hai]; khi dân số tăng lên, mỗi thị tộc lại chia thành vài thị tộc con,
thị tộc mẹ vẫn tồn tại với tư cách là bào tộc. Bản thân bộ lạc cũng chia thành
nhiều bộ lạc mới, trong mỗi bộ lạc mới ấy, th́ ở hầu hết các trường hợp, ta đều
gặp lại các thị tộc trước đây; ít ra là ở một vài trường hợp, các bộ lạc cùng
thân tộc hợp thành một liên minh bộ lạc. Tổ chức đơn giản này hoàn toàn phù hợp
với các điều kiện xă hội đă đẻ ra nó. Nó chẳng qua là một cơ cấu lớn lên một
cách tự nhiên từ những điều kiện đó; nó có khả năng giải quyết mọi xung đột có
thể xảy ra, trong một xă hội được tổ chức như vậy. Những xung đột bên ngoài th́
do chiến tranh giải quyết, chiến tranh có thể kết thúc bằng sự tiêu diệt bộ
lạc, chứ không bao giờ bằng sự nô dịch bộ lạc. Sự vĩ đại, và cũng là điều hạn
chế, của chế độ thị tộc, chính là v́ nó
không có chỗ cho kẻ thống trị cũng như bị trị. Trong nội bộ thị tộc,
chưa có phân biệt giữa quyền lợi và nghĩa vụ; với người Indian, th́ câu hỏi
“tham gia công việc chung, báo thù, trả tiền chuộc là quyền lợi hay nghĩa vụ?”
không tồn tại; v́ nó vô nghĩa, y như câu hỏi “ăn, ngủ, săn bắn là quyền lợi hay
nghĩa vụ?” Trong bộ lạc hay thị tộc lại càng không thể có sự phân chia thành
các giai cấp khác nhau. Và điều này khiến ta phải nghiên cứu cơ sở kinh tế của
chế độ đó.
Dân cư sống hết sức thưa thớt, chỉ ở nơi bộ lạc cư trú
th́ mới có đông người, xung quanh đó là một vùng đất rộng, trước hết là một khu
vực dùng làm vùng săn bắn, tiếp đó là một miền rừng bảo hộ không thuộc về bộ
lạc nào cả, nó khiến các bộ lạc cách biệt với nhau. Sự phân công lao động hoàn
toàn mang tính nguyên thủy, chỉ là giữa nam và nữ thôi. Đàn ông đi đánh trận,
săn bắn và đánh cá, t́m thức ăn và những công cụ cần cho việc đó. Đàn bà trông
coi nhà cửa, chuẩn bị cái ăn cái mặc; họ làm bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm
chủ trong lĩnh vực hoạt động của ḿnh: đàn ông làm chủ trong rừng, đàn bà làm
chủ ở nhà. Họ cũng làm chủ những công cụ do ḿnh chế tạo và sử dụng: với đàn ông, đó là vũ khí, các công cụ để
săn bắn và đánh cá; với đàn bà, đó là các dụng cụ gia đ́nh. Kinh tế gia đ́nh có
tính cộng sản, gồm vài gia đ́nh, mà thường là gồm rất nhiều gia đ́nh1*. Cái ǵ
được làm ra và sử dụng chung th́ là của chung, như nhà cửa, vườn tược, thuyền
độc mộc. Vậy là ở đây, và chỉ ở đây thôi, mới có cái “sở hữu do chính lao động
của ḿnh làm ra”; cái sở hữu mà trong xă hội văn minh, chỉ là điều bịa đặt của
các luật gia và kinh tế gia, và là căn cứ pháp lí giả dối sau cùng mà chế độ sở
hữu tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn c̣n dựa vào.
Nhưng loài người không dừng lại ở giai đoạn đó trên
khắp mọi nơi. Ở châu Á, họ đă t́m thấy những động
vật có thể thuần dưỡng được, và sau đó, làm chúng sinh sôi nảy nở được trong
t́nh trạng thuần hóa. Họ phải săn trâu cái ở trên rừng về; khi đă được thuần hóa, mỗi năm nó sẽ đẻ một con nghé, và c̣n cho
sữa nữa. Vài bộ lạc tiên tiến nhất - như người Arya, người Semite, có thể là
cả người Turan nữa - lúc đầu th́ lấy việc thuần dưỡng gia súc, sau này th́ chỉ
lấy việc chăn nuôi và coi giữ gia súc làm công việc chủ yếu. Các bộ lạc du mục
tách rời khỏi số đông những người dă man khác: đó là cuộc phân công lao động xă
hội lớn đầu tiên. Các bộ lạc du mục không chỉ sản xuất ra nhiều tư liệu sinh
hoạt hơn những dân khác, mà các tư liệu sinh hoạt đó cũng khác. Không chỉ có
nhiều sữa, nhiều sản phẩm từ sữa, và nhiều thịt hơn; họ c̣n có cả da thú, len,
lông dê; ngoài ra là nhiều sợi và hàng dệt, v́ khối lượng nguyên liệu đă tăng
lên. V́ thế mà lần đầu tiên, đă có thể có sự trao đổi đều đặn. Ở các giai đoạn phát triển trước đây th́ chỉ có thể xảy
ra sự trao đổi ngẫu nhiên thôi: sự khéo léo đặc biệt trong việc chế tạo vũ khí
và công cụ, có thể đưa tới một sự phân công lao động nhất thời. Như ở nhiều
nơi, đă t́m thấy những di chỉ, chắc chắn là của các xưởng chế tạo công cụ đá,
có từ cuối thời đồ đá. Những người thợ đă trau dồi kĩ năng của ḿnh ở các xưởng
đó, hẳn là đă làm việc cho toàn thể dân ḿnh; cũng như các thợ thủ công đặc
biệt, vẫn c̣n trong các công xă thị tộc ở Ấn Độ ngày nay. Ở giai đoạn đó, trao đổi chẳng thể phát sinh ở đâu, ngoài
nội bộ thị tộc; và kể cả trong trường hợp đó, nó cũng chỉ là một hiện tượng
ngoại lệ. Nhưng giờ đây, khi các bộ lạc du mục đă tách ra, ta thấy mọi điều
kiện đều đă chín muồi; để việc trao đổi diễn ra giữa những người khác bộ lạc
với nhau, và để sự trao đổi ấy phát triển, trở thành một chế độ thường xuyên.
Lúc đầu, việc trao đổi giữa các bộ lạc được tiến
hành thông qua các tù trưởng thị tộc, nhưng khi các đàn súc vật bắt đầu chuyển
thành sở hữu riêng rẽ1, th́ việc trao đổi giữa các cá nhân ngày càng phổ biến,
và sau này th́ trở thành h́nh thức duy nhất. Nhưng vật phẩm chủ yếu mà các bộ
lạc du mục đem trao đổi với láng giềng chính là súc vật; súc vật trở thành một
hàng hóa được dùng để định giá mọi hàng hóa khác, và ở mọi nơi, đều được người
ta vui ḷng nhận lấy để trao đổi. Tóm lại, súc vật đă có chức năng tiền tệ, và
đă được dùng làm tiền tệ, ngay từ giai đoạn đó. Nhu cầu về một hàng hóa đặc
biệt, tức là tiền tệ, đă trở nên cần thiết và cấp bách biết bao; ngay từ lúc
mới bắt đầu có sự trao đổi hàng hóa.
Nghề làm vườn, mà chắc là những người châu Á ở giai
đoạn thấp của thời dă man c̣n chưa biết tới, đă xuất hiện ở họ chậm nhất là vào
giai đoạn giữa, trước khi có nông nghiệp. Với khí hậu của vùng đồng bằng Turan,
th́ không thể duy tŕ lối sống du mục, nếu không dự trữ cỏ khô cho mùa đông dài
khắc nghiệt, vậy nên ở đây cần mở rộng đồng cỏ và trồng ngũ cốc. Với các thảo
nguyên ở phía bắc biển Đen th́ cũng vậy. Nhưng nếu lúc đầu, người ta trồng ngũ
cốc cho súc vật ăn, th́ chẳng bao lâu sau, nó cũng trở thành thức ăn cho người.
Đất đai trồng trọt vẫn là của bộ lạc, lúc đầu th́ giao cho thị tộc; sau th́ thị
tộc lại giao cho [các công xă gia đ́nh, và cuối cùng là cho] các cá nhân sử dụng;
họ có thể có những quyền chiếm hữu nhất định, nhưng chỉ là quyền chiếm hữu
thôi.
Trong các thành tựu công nghiệp của giai đoạn này, có
hai thứ mang ư nghĩa quan trọng nhất. Thứ nhất là cái khung cửi, thứ nh́ là
việc nấu chảy quặng và chế tạo đồ kim loại. Đồng, thiếc, và hợp kim của chúng
là đồng thiếc; là các chất quan trọng nhất. Đồng thiếc được dùng làm các công
cụ và vũ khí bền chắc, nhưng không thay thế được công cụ đá; chỉ sắt mới làm
được điều đó, nhưng người ta chưa biết khai thác sắt. Vàng bạc bắt đầu được
dùng để trang trí và trang sức, lúc này hẳn là chúng đă có giá cao hơn so với
các chất nêu trên.
Sản xuất tăng lên trong tất cả các ngành - chăn nuôi
súc vật, nông nghiệp, thủ công nghiệp gia đ́nh - làm cho sức lao động của con
người có khả năng sản xuất ra một lượng sản phẩm nhiều hơn mức cần thiết cho
sinh hoạt. Đồng thời, nó tăng thêm lượng lao động hàng ngày mà một thành viên
của thị tộc, công xă, hoặc gia đ́nh cá thể, phải đảm nhận. Do đó mà có nhu cầu
thu hút các nguồn lực lao động mới. Chiến tranh cung cấp các nguồn lực mới này:
tù binh đều bị biến thành nô lệ. Cuộc phân công lao động xă hội lớn đầu tiên,
cùng với việc tăng năng suất lao động, tức là tăng của cải, và sự mở rộng lĩnh
vực sản xuất, trong điều kiện lịch sử chung khi đó, nhất định phải đưa tới chế
độ nô lệ. Từ cuộc phân công lao động xă hội lớn đầu
tiên, đă nảy sinh sự phân chia lớn đầu tiên trong xă hội, thành hai giai cấp:
chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột.
Từ khi nào và như thế nào, các đàn súc vật được chuyển
từ sở hữu công của bộ lạc hay thị tộc, thành sở hữu của các chủ gia đ́nh riêng
rẽ; cho đến nay ta chưa biết ǵ về điều này cả. Nhưng về căn bản, việc đó hẳn
là đă xảy ra ở giai đoạn này. Với các đàn súc vật và những của cải mới khác,
một cuộc cách mạng đă xuất hiện trong gia đ́nh. Việc t́m kiếm thức ăn bao giờ
cũng là của đàn ông; chính họ đă sản xuất và sở hữu những công cụ cần cho việc
đó. Các đàn súc vật là những phương tiện sinh sống mới; giờ đây, công việc của
đàn ông ban đầu là thuần dưỡng, sau đó là chăn nuôi súc vật. V́ thế, súc vật là
của đàn ông, cũng như hàng hóa và nô lệ có được do trao đổi súc vật. Toàn bộ
phần thặng dư mà việc sản xuất đem lại đều thuộc về đàn ông; người đàn bà cũng
tham gia sử dụng, nhưng không được sở hữu chúng chút nào. “Người đàn ông thời
mông muội”, vừa là chiến sĩ, vừa là người đi săn, vui ḷng giữ địa vị thứ yếu
trong nhà, sau người đàn bà; người chăn nuôi “hiền lành hơn”, th́ lại cậy ḿnh
có của mà tiến lên hàng thứ nhất, và hạ người đàn bà xuống hàng thứ yếu. Và
người đàn bà không thể phàn nàn ǵ được. Sự phân công lao động trong gia đ́nh
đă qui định việc phân chia tài sản giữa đàn ông và đàn bà. Sự phân công đó vẫn
như xưa, nhưng giờ nó lại làm đảo lộn hoàn toàn các quan hệ gia đ́nh trước kia;
đơn giản là v́ sự phân công lao động ở ngoài gia đ́nh đă thay đổi. Chính cái
nguyên do trước kia đảm bảo quyền thống trị trong nhà cho người đàn bà - đó là
họ chỉ làm công việc gia đ́nh - nay lại khiến sự thống trị của người đàn ông
trong gia đ́nh trở thành tất yếu; công việc nội trợ của người đàn bà không c̣n ư
nghĩa ǵ nữa, so với lao động sản xuất của người đàn ông; giờ đây, cái thứ hai
mới là tất cả, c̣n cái thứ nhất chỉ là phần phụ thêm nhỏ nhặt. Từ đây, ta có thể thấy rằng: việc
giải phóng phụ nữ và b́nh đẳng giới là không thể, và sẽ măi măi không thể; nếu
nữ giới vẫn c̣n bị gạt ra khỏi lao động sản xuất xă hội, và bị giới hạn trong
phạm vi lao động tư nhân của gia đ́nh. Việc đó chỉ có thể làm được, nếu phụ nữ
được tham gia sản xuất trên một qui mô xă hội rộng lớn, và chỉ phải tốn rất ít
thời gian vào công việc gia đ́nh. Và điều trên chỉ có thể làm được, với nền đại
công nghiệp hiện đại: nó không chỉ thu nhận lao động nữ một cách rộng răi, mà
c̣n hướng tới việc chấm dứt lao động tư nhân trong gia đ́nh, bằng cách ngày
càng biến nó thành một ngành sản xuất xă hội.
Người đàn ông đă thực sự thống trị trong gia đ́nh.
Những rào cản cuối cùng ngăn cản quyền lực tuyệt đối của họ đă sụp đổ. Sự
chuyên quyền đó được xác lập và duy tŕ bằng việc lật đổ chế độ mẫu quyền, dựng
lên chế độ phụ quyền; và bằng bước quá độ dần dần, từ hôn nhân đối ngẫu sang
hôn nhân cá thể. Nhưng điều này cũng tạo ra một vết rạn nứt trong chế độ thị
tộc cổ: gia đ́nh cá thể đă trở thành một thế lực, sự xuất hiện của nó là mối đe
dọa với thị tộc.
Bước tiếp theo đưa ta tới giai đoạn cao của thời dă
man, giai đoạn mà mọi dân tộc văn minh đều đă trải qua, với thời đại anh hùng
của họ; thời đại của kiếm sắt, cũng như của ŕu sắt và lưỡi cày sắt. Sắt giờ
đây đă phục vụ con người, đó là cái cuối cùng và quan trọng nhất, trong tất cả
các nguyên liệu đă đóng vai tṛ cách mạng trong lịch sử; cho tới khi khoai tây
xuất hiện. Sắt cho phép canh tác trên diện tích lớn hơn, khai hoang được những
miền rừng rú rộng hơn; đem lại cho thợ
thủ công những công cụ rất cứng và sắc, không thứ đá hay kim loại nào ở thời đó
đương đầu với nó được. Tất cả những cái đó, phải từ từ mới đạt được: thứ sắt
đầu tiên thường lại mềm hơn cả đồng thiếc. V́ thế mà vũ khí bằng đá chỉ từ từ
mất đi: không chỉ trong “Bài ca Hildebrand”, mà cả ở trận Hastings năm 1066,
ŕu đá vẫn được dùng trong chiến đấu. Nhưng từ nay, sự phát triển sẽ không thể bị chặn đứng nữa;
nó ít bị gián đoạn hơn, và diễn ra mau chóng hơn. Thành thị, với những căn nhà
xây bằng gạch hoặc đá, được bao quanh bởi các bức tường, vọng gác và lỗ châu
mai xây bằng đá, đă trở thành chỗ ở trung tâm của bộ lạc hay liên minh bộ lạc;
đó là một bước tiến to lớn về mặt kiến trúc, nhưng cũng là dấu hiệu rằng sự
nguy hiểm và nhu cầu pḥng vệ đă tăng lên. Của cải tăng lên mau chóng, nhưng đó
vẫn là của cải tư nhân. Dệt, chế tạo đồ kim loại, và các ngành thủ công khác
ngày càng tách khỏi nhau; nhờ đó mà sản phẩm của chúng ngày càng đa dạng và
chất lượng. Ngoài ngũ cốc, các cây họ đậu và hoa quả, nông nghiệp c̣n cung cấp
cả rượu vang và dầu thực vật, v́ người ta đă biết cách chế tạo. Các hoạt động
nhiều mặt như vậy không thể chỉ do mỗi một cá nhân tiến hành được nữa; cuộc
phân công lao động xă hội lớn thứ hai đă diễn ra: thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp. Sản xuất tăng lên không ngừng, cùng với đó là sự tăng năng suất
lao động, đă làm tăng giá trị sức lao động của con người. Chế độ nô lệ, ở giai
đoạn trước hăy c̣n mới mẻ và lẻ tẻ, bây giờ là bộ phận chủ yếu cấu thành chế độ
xă hội; nô lệ không c̣n là kẻ phụ giúp đơn thuần nữa: từng tá người một, họ bị
đẩy đi làm việc ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ. Với việc sản xuất được
chia làm hai ngành chính: thủ công nghiệp và nông nghiệp, th́ nền sản xuất để
trực tiếp trao đổi cũng ra đời: đó là nền sản xuất hàng hóa. Cùng với đó,
thương nghiệp xuất hiện, không chỉ ở trong bộ lạc, hay là các vùng ranh giới;
mà cả với các miền ở hải ngoại nữa. Tuy thế, tất cả những cái đó hăy c̣n rất
chưa phát triển; các kim loại quí dần trở thành thứ hàng hóa phổ biến và thống
trị, nghĩa là trở thành tiền tệ, nhưng chúng vẫn chưa được đúc thành từng đồng
tiền, mà chỉ được đem trao đổi theo khối lượng.
Sự phân biệt giàu nghèo đă xuất hiện, bên cạnh sự phân biệt chủ nô với nô lệ; cùng với sự phân công lao
động mới, xă hội một lần nữa phân chia thành các giai cấp. Sự chênh lệch về tài
sản, giữa các chủ gia đ́nh riêng rẽ, đă phá vỡ công xă gia đ́nh cộng sản chủ
nghĩa cũ, ở bất ḱ đâu mà nó c̣n được duy tŕ; cùng với đó, việc cày cấy chung
ruộng đất do công xă, và v́ công xă, cũng mất đi. Đất canh tác được cấp cho các
gia đ́nh riêng rẽ, lúc đầu là tạm thời, sau này th́ vĩnh viễn. Bước quá độ sang
chế độ tư hữu hoàn toàn th́ được thực hiện dần dần, song song với bước quá độ
từ hôn nhân đối ngẫu tới hôn nhân cá thể. Gia đ́nh cá thể bắt đầu trở thành đơn
vị kinh tế của xă hội.
T́nh trạng dân cư ngày càng đông đúc đ̣i hỏi sự đoàn
kết chặt chẽ hơn, trong các hành động đối nội cũng như đối ngoại. Ở khắp nơi,
liên minh các bộ lạc cùng thân tộc đă trở nên cần thiết; không lâu sau, sự hợp
nhất các lănh thổ của các bộ lạc riêng, thành một lănh thổ chung của bộ tộc,
cũng trở nên cần thiết. Thủ lĩnh quân sự của bộ tộc - rex, basileus, thiudans -
trở thành một viên chức cần thiết, thường trực. Đại hội nhân dân được thành
lập, ở những nơi mà trước đây nó chưa có. Thủ lĩnh quân sự, hội đồng, đại hội
nhân dân, đó là các cơ quan của xă hội thị tộc, nay đă phát triển thành chế độ
dân chủ quân sự; gọi là quân sự, v́ chiến tranh và tổ chức chiến tranh bây giờ
đă là các chức năng thường xuyên của đời sống nhân dân. Của cải từ những láng giềng
đă kích thích ḷng tham của các bộ tộc, những kẻ giờ đây coi việc chiếm đoạt
của cải là một mục đích chính của cuộc sống. Họ là những người dă man: với họ,
cướp bóc th́ dễ dàng hơn, thậm chí c̣n vinh dự hơn, so với lao động sản xuất.
Chiến tranh, trước kia chỉ được tiến hành để trả thù, hoặc để mở rộng một lănh
thổ đă trở nên chật hẹp; th́ nay được tiến hành đơn giản là để cướp bóc, và trở
thành một nghề nghiệp thường xuyên. Không phải vô cớ mà người ta xây lên các
bức tường thành dựng đứng đáng sợ, bao bọc các thành thị được pḥng thủ kiên
cố. Hào sâu dưới chân thành là cái mồ của chế độ thị tộc, và các tháp canh
chung quanh thành đă vươn tới thời văn minh. Với xă hội bên trong th́ cũng vậy.
Những cuộc chiến tranh cướp bóc đă làm tăng quyền lực của thủ lĩnh quân sự tối
cao, cũng như các chỉ huy dưới quyền; cái tập quán bầu người kế nhiệm từ cùng
một gia đ́nh, đă dần dần, đặc biệt là từ khi có chế độ phụ quyền, trở thành một
quyền lực thế tập. Ban đầu, người ta chấp nhận nó; sau này, người ta đ̣i hỏi nó;
cuối cùng th́ người ta đoạt lấy nó. Cơ sở của vương quyền thế tập và quí tộc
thế tập đă được thiết lập. Vậy là các cơ quan của chế độ thị tộc dần tách ḿnh
khỏi gốc rễ của chúng trong nhân dân, trong thị tộc, bào tộc, bộ lạc; và toàn
bộ chế độ thị tộc chuyển hóa thành cái đối lập với nó. Từ một tổ
chức của bộ lạc, dùng để giải quyết công việc của
ḿnh một cách tự do, nó biến thành một tổ chức dùng để để cướp bóc và áp bức
láng giềng; tương ứng với điều đó, các cơ
quan của nó, ban đầu là công cụ để thực hiện ư chí của nhân
dân, nay đă biến thành các cơ quan độc lập, dùng để thống trị và áp bức nhân
dân. Nhưng chuyện này không bao giờ có thể xảy ra, nếu ḷng tham của cải không
khiến cho các thành viên thị tộc chia thành người giàu và kẻ nghèo, nếu “sự
chênh lệch về tài sản trong cùng một thị tộc không biến sự thống nhất về lợi
ích, thành sự đối kháng giữa các thành viên thị tộc” (Marx), và nếu sự phát
triển rộng răi của chế độ nô lệ không bắt đầu làm cho người ta coi rằng: lao
động để kiếm sống th́ chỉ xứng với nô lệ, và kém vinh dự hơn việc cướp bóc.
Bây giờ, ta đă tới ngưỡng cửa của thời văn minh. Thời
văn minh mở đầu với một bước tiến mới trong sự phân công lao động. Ở giai đoạn
thấp của thời dă man, con người chỉ sản xuất để trực tiếp đáp ứng nhu cầu bản
thân; việc trao đổi thi thoảng lắm mới có, và chỉ là trao đổi các sản phẩm thừa
do ngẫu nhiên mà có. Tới giai đoạn giữa, ta thấy là ở các bộ tộc du mục, súc
vật đă là một tài sản; khi các đàn súc vật này đủ nhiều, th́ chúng sẽ sản xuất
ra một lượng sản phẩm thừa thường xuyên, điều này dẫn tới việc phân công lao
động giữa các bộ lạc du mục và những dân chậm tiến hơn, không có gia súc; tức
là có hai mặt khác nhau của sản xuất đă cùng tồn tại, và có những điều kiện cần
thiết để tiến hành trao đổi thường xuyên. Tới giai đoạn
cao của thời dă man, ta thấy có một sự phân công lao động mới, giữa thủ công
nghiệp và nông nghiệp, v́ thế, có sự sản xuất ra một bộ phận ngày càng lớn sản
phẩm để trao đổi trực tiếp, do đó, việc trao đổi giữa
những người sản xuất riêng rẽ đă trở thành một chức năng sống c̣n của xă hội.
Thời văn minh đă củng cố và phát triển mọi sự phân
công lao động đang tồn tại, đặc biệt bằng cách tăng cường sự đối lập giữa thành
thị và nông thôn (thành thị có thể thống trị nông thôn về mặt kinh tế, như ở
thời Cổ đại; nông thôn cũng có thể chi phối thành thị, như ở thời Trung cổ); và
nó c̣n thêm vào một sự phân công lao động thứ ba nữa, sự phân công lao động mà
chỉ nó mới có, và mang ư nghĩa quyết định; nó đẻ ra một giai cấp không tham gia
sản xuất, mà chỉ chuyên trao đổi sản phẩm: đó là thương nhân. Cho tới nay, mỗi khi giai cấp h́nh thành, th́ đó hoàn
toàn là v́ các lí do trên lĩnh vực sản xuất; chúng đă chia những người tham gia
nền sản xuất thành người điều khiển và người thừa hành, hay là người sản xuất
qui mô nhỏ và người sản xuất qui mô lớn. Ở đây, lần đầu tiên xuất hiện một giai
cấp, dù không tham gia sản xuất tí nào, nhưng lại chiếm toàn quyền lănh đạo nền
sản xuất, và nô dịch những người sản xuất về mặt kinh tế; nó trở thành kẻ trung
gian không thể thiếu giữa hai người sản xuất, và bóc lột cả đôi bên. Viện cớ
“giúp người sản xuất tránh khỏi những khó nhọc và rủi ro trong việc trao đổi,
mở rộng việc bán sản phẩm của họ tới các thị trường xa xôi, do đó trở thành
giai cấp có ích nhất trong nhân dân”, một giai cấp những kẻ kí sinh đă xuất
hiện, những kẻ ăn bám xă hội đích thực; chúng hớt lấy phần tinh túy nhất của
sản xuất, ở trong nước cũng như ở nước ngoài, và coi đó là tiền công trả cho sự
giúp ích - mà trên thực tế là rất nhỏ nhặt - của ḿnh; giai cấp này mau chóng
thu về một lượng của cải kếch xù, tương ứng với đó là ảnh hưởng xă hội to lớn;
v́ thế, ở thời văn minh, giai cấp này ngày càng có được nhiều vinh dự, và chi
phối nền sản xuất ngày càng mạnh; cho tới khi cuối cùng, nó đẻ ra cái sản phẩm
của riêng ḿnh: những cuộc khủng hoảng thương nghiệp định ḱ.
Tuy nhiên, ở giai đoạn phát triển mà ta đang nghiên
cứu, giai cấp thương nhân mới ra đời hoàn toàn chưa có ư niệm ǵ về cái sứ mệnh
vĩ đại đang chờ đợi nó. Giai cấp ấy cứ h́nh thành, và trở nên cần thiết, thế là
đủ. Cùng với thương nhân, th́ tiền kim khí, tức là tiền đúc, cũng phát triển;
đó lại là một công cụ thống trị mới của kẻ không sản xuất đối với người sản
xuất, và đối với công việc sản xuất. Hàng hóa của các hàng hóa đă được phát
hiện ra; nó chứa đựng trong ḿnh mọi hàng hóa khác, dưới dạng tiềm ẩn; nó là
cái ma lực, có thể tùy ư biến thành tất cả những ǵ đáng để người ta thèm muốn,
và được người ta thèm muốn. Ai có nó th́ sẽ chi phối được thế giới sản xuất. Vậy ai là người có được nó trước tiên? Ấy là thương
nhân. Sự sùng bái đồng tiền được đảm bảo nhờ bàn tay của anh ta. Thương nhân có
trách nhiệm làm cho người ta thấy rơ rằng: mọi hàng hóa, cùng với đó là tất cả những
người sản xuất hàng hóa, đều phải thành kính biến thành cát bụi trước đồng tiền.
Anh ta chứng minh bằng thực tiễn rằng: mọi h́nh thức khác của tài sản đều chỉ
là cái bóng trước hiện thân đó của tài sản. Chưa bao giờ mà thế lực của đồng
tiền lại tự biểu hiện ḿnh một cách thô bạo và tàn nhẫn như ở thời thanh xuân
của nó. Sau khi hàng hóa được bán lấy tiền, th́ tới việc cho vay tiền, và cùng
với đó là việc thu lợi tức và tệ cho vay nặng lăi. Không có pháp chế nào ở các
thời đại sau này lại dúi con nợ xuống dưới chân chủ nợ, một cách triệt để và
nhẫn tâm, như là pháp chế của Athens cổ đại và Rome cổ đại; và ở cả hai thành
bang này, pháp chế đó đều phát sinh một cách tự nhiên, với tư cách là tập quán
pháp, hoàn toàn do kinh tế mà ra.
Bên cạnh của cải dưới dạng hàng hóa và nô lệ, bên cạnh
của cải dưới dạng tiền, c̣n có của cải dưới dạng ruộng đất. Quyền chiếm hữu của
các cá nhân, đối với các mảnh ruộng mà lúc đầu được thị tộc và bộ lạc chia cho,
giờ đă được củng cố, đến mức ruộng đất đó đă trở thành tài sản thừa kế được. Ấy là v́ trước kia, họ đă gắng sức, trên hết là để
giành được cái tự do của ḿnh, để thoát khỏi quyền lực của công xă thị tộc đối
với mảnh đất đó; quyền lực ấy giờ đă trở thành xiềng xích đối với họ. Họ đă vứt
bỏ được xiềng xích đó, nhưng chẳng bao lâu sau, họ cũng mất luôn cái quyền sở
hữu ruộng đất mà ḿnh mới có được. Quyền sở hữu ruộng đất hoàn toàn và tự do
không chỉ có nghĩa là: có thể chiếm hữu ruộng đất không hạn chế, mà c̣n có
nghĩa là: có thể chuyển nhượng ruộng đất đó. Chừng nào ruộng đất c̣n là của thị
tộc, th́ khả năng đó không có. Nhưng khi người chủ mới của ruộng đất vứt bỏ
được những xiềng xích, vốn là do quyền lực tối cao của thị tộc và bộ lạc gây
ra, th́ anh ta cũng cắt đứt luôn những sợi dây vẫn buộc ḿnh vào ruộng đất đó
từ trước tới nay. Điều đó có nghĩa là thế nào, th́ tiền tệ - cái được
phát minh ra cùng lúc với quyền tư hữu ruộng đất - đă cho anh ta thấy rơ. Ruộng
đất nay đă là một hàng hóa, và có thể đem bán hay cầm cố được. Quyền tư hữu
ruộng đất vừa được xác lập, th́ việc cầm cố cũng được phát minh ra ngay (xem
Athens*). Anh muốn có quyền sở hữu ruộng đất toàn vẹn, tự do, có thể chuyển
nhượng được; giờ th́ anh có nó rồi đó: “Tu l’as voulu, George Dandin!”2.
Cùng với sự mở rộng thương mại, cùng với tiền và
tệ cho vay nặng lăi, cùng với quyền tư hữu ruộng đất và chế độ cầm cố, sự tích
tụ và tập trung của cải vào tay một ít người đă diễn ra nhanh chóng; cùng với
đó là sự bần cùng hóa của quần chúng, và khối quần chúng bị bần cùng, cũng
nhiều lên. Tầng lớp quí tộc giàu có mới, nếu không có xuất thân từ quí tộc thế
tập cũ, th́ lại đẩy hẳn quí tộc cũ xuống hàng thứ yếu (như ở Athens, ở Rome, ở
người Germania). Bên cạnh t́nh trạng các công dân tự do được chia thành nhiều
giai cấp, tùy theo tài sản; th́ số nô lệ lại tăng lên rất nhanh, đặc biệt ở Hi
Lạp2*; lao động cưỡng bức của họ là cái nền tảng, mà từ đó, kiến trúc thượng
tầng của toàn thể xă hội được xây nên.
Bây giờ ta sẽ xem, trong cuộc đảo lộn xă hội ấy, chế
độ thị tộc sẽ ra sao. Phải đương đầu với các yếu tố mới, đă xuất hiện mà không
có sự tham gia của ḿnh, nó tỏ ra bất lực. Điều kiện cần của chế độ thị tộc là
các thành viên thị tộc, hay ít ra là bộ lạc, phải cùng sống trên một lănh thổ;
và chỉ có ḿnh họ ở đó thôi. Điều đó từ lâu đă không c̣n. Trên mọi vùng lănh
thổ, người dân từ khắp các thị tộc và bộ lạc đều sống lẫn vào nhau; ở khắp nơi,
nô lệ, người được bảo hộ, người từ nơi khác đến, đều sống chung với công dân tự
do. Cuộc sống định cư, mà măi tới cuối giai đoạn giữa của thời dă man mới có,
đă bị phá vỡ bởi những thay đổi liên tục trong dân cư; do thương mại, hay sự
thay đổi nghề nghiệp, hoặc việc chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng đất. Những
thành viên của các đoàn thể thị tộc không thể họp lại để giải quyết những công
việc chung của họ nữa, chỉ những việc nhỏ nhặt, như các nghi lễ tôn giáo, th́
vẫn được tổ chức lấy lệ. Bên cạnh những nhu cầu và lợi ích mà các đoàn thể thị
tộc có sứ mệnh và có thể đảm bảo được, th́ sự đảo lộn trong các quan hệ sản
xuất, và những biến đổi trong cơ cấu xă hội mà nó gây nên, đă đẻ ra những nhu
cầu và lợi ích mới; chúng không chỉ xa lạ đối với chế độ thị tộc, mà c̣n trực
tiếp đối lập với chế độ ấy về mọi mặt. Lợi ích của những nhóm thợ thủ công đă
xuất hiện cùng với sự phân công lao động, những nhu cầu đặc biệt của thành thị, đối lập với nông thôn, đă đ̣i hỏi
phải có các cơ quan mới. Nhưng mỗi nhóm đó đều gồm những người đến từ các thị
tộc, bào tộc và bộ lạc khác nhau; thậm chí có cả người từ nơi khác tới. V́ thế,
các cơ quan đó phải được h́nh thành bên ngoài chế độ thị tộc, ở bên cạnh chế độ
ấy, do đó mà cũng đối lập với nó. Trong mỗi đoàn thể thị tộc, cũng có sự xung
đột về lợi ích như thế; xung đột đó đạt tới h́nh thái gay gắt nhất, khi mà
người giàu và kẻ nghèo, chủ nợ và con nợ cùng ở trong một thị tộc và bộ lạc.
Thêm vào đó, có cả một số lớn dân cư mới. Họ ở ngoài các đoàn thể thị tộc,
nhưng có thể trở thành một thế lực trong nước, như ở Rome; và họ quá đông, nên
không thể từ từ gia nhập vào các thị tộc và bộ lạc thân tộc được. Đối lập với
khối người đông đúc ấy, các đoàn thể thị tộc trở thành các tập đoàn khép kín,
có đặc quyền; nền dân chủ nguyên thủy, ra đời một cách tự nhiên, giờ biến thành
một chế độ quí tộc đáng ghét. Sau cùng, chế độ thị tộc sinh ra từ một xă hội
chưa từng biết tới mâu thuẫn nội tại nào cả, và nó chỉ phù hợp với một xă hội
như thế thôi. Ngoài dư luận công chúng ra th́ nó không có một công cụ cưỡng chế
nào cả. Nhưng giờ đây, có một xă hội mới, do các điều kiện kinh tế sống c̣n của
ḿnh, đă buộc phải tự chia thành dân tự do và nô lệ, thành kẻ giàu chuyên đi
bóc lột và người nghèo bị bóc lột; một xă hội không những không thể điều ḥa
lại các mâu thuẫn đó, mà c̣n buộc phải luôn làm cho chúng trở nên gay gắt hơn.
Một xă hội như thế chỉ có thể tồn tại, hoặc là trong cuộc đấu tranh công khai
không ngừng giữa các giai cấp với nhau, hoặc là dưới sự thống trị của một thế
lực thứ ba. Thế lực này, dường như đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với
nhau, sẽ dập tắt cuộc xung đột công khai giữa họ, hay cùng lắm là để cuộc đấu
tranh giai cấp chỉ diễn ra trong phạm vi kinh tế, dưới một h́nh thức gọi là hợp
pháp. Chế độ thị tộc đă hết thời rồi. Nó đă bị phá vỡ bởi sự phân công lao
động, và kết quả của việc đó, tức là sự phân chia xă hội thành
các giai cấp. Nó đă bị Nhà nước thay thế.
Trên đây, ta đă nghiên cứu chi tiết ba h́nh thức chính
của Nhà nước, được dựng lên trên đống hoang tàn của chế độ thị tộc. Athens là
h́nh thức cổ điển, thuần túy nhất; ở đây, Nhà nước nảy sinh trực tiếp và chủ
yếu từ các mâu thuẫn giai cấp đă phát triển ngay trong ḷng xă hội thị tộc. Ở
La Mă, xă hội thị tộc trở thành một tầng lớp quí tộc khép kín, sống giữa đám
b́nh dân đông đảo ở bên ngoài, vốn chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền lợi; thắng
lợi của b́nh dân đă phá vỡ chế độ thị tộc cũ, trên đống hoang tàn của chế độ
ấy, một Nhà nước đă mọc lên, và không lâu sau, cả quí tộc thị tộc lẫn b́nh dân
đều bị ḥa tan hết vào Nhà nước đó. Cuối cùng, ở trường hợp người Germania đi
chinh phục đế quốc La Mă, th́ Nhà nước nảy sinh trực tiếp từ việc chiếm hữu
những lănh thổ rộng lớn, mà chế độ thị tộc không đem lại được phương tiện quản
lí nào cả. Nhưng cuộc chinh phục không đ̣i hỏi một cuộc chiến kịch liệt với dân
bản xứ, cũng như không đ̣i hỏi một sự phân công lao động tiến bộ hơn, v́ tŕnh
độ phát triển kinh tế của kẻ chinh phục và người bị chinh phục cũng gần như nhau, do đó mà cơ sở kinh tế của xă hội vẫn giữ
nguyên. V́ thế nên chế độ thị tộc vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong nhiều thế
kỉ, dưới một h́nh thức đă biến đổi và mang tính địa phương, như là chế độ công
xă mark; và thậm chí c̣n tự hồi sinh dưới một h́nh thức yếu ớt hơn, như là các thị tộc quí tộc có đặc
quyền sau này, và cả các thị tộc nông dân nữa, như ở Dithmarschen3*.
Vậy th́ Nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ
bên ngoài ấn vào xă hội; và càng không phải là “hiện thực của ư niệm đạo đức”,
hay “h́nh ảnh và hiện thực của lí tính”, như Hegel khẳng định. Đúng ra, nó là
sản phẩm của một xă hội đă ở một giai đoạn phát triển nhất định, nó là sự thú
nhận rằng xă hội đó đă rơi vào một mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết được;
và đă bị phân chia thành các mặt đối lập không thể dung ḥa với nhau, mà xă hội
ấy cũng không trừ bỏ được. Nhưng để các mặt đối lập ấy, là các giai cấp có xung
đột về lợi ích kinh tế với nhau, không tiêu diệt lẫn nhau, và tiêu diệt cả xă
hội, trong một cuộc đấu tranh vô ích; th́ phải có một lực lượng, tựa như đứng
trên xă hội, làm nhiệm vụ xoa dịu xung đột, và giữ xung đột đó trong ṿng “trật
tự”. Và lực lượng đó, nảy sinh từ xă hội, nhưng lại đứng trên xă hội, và ngày
càng xa rời xă hội, chính là Nhà nước.
So với tổ chức thị tộc trước kia, đặc trưng thứ nhất
của Nhà nước là sự phân chia dân cư trên cơ sở địa phương. Như ta đă thấy, các
đoàn thể thị tộc cổ, được h́nh thành và duy tŕ nhờ quan hệ huyết tộc, th́ đă
không c̣n phù hợp, chủ yếu là v́ tiền đề của chúng - đó là các thành viên thị
tộc phải gắn chặt với một địa phương nhất định - đă không c̣n nữa. Địa phương
vẫn c̣n đó, nhưng con người th́ đă trở nên di động. V́ thế, sự phân chia địa
phương được lấy làm điểm xuất phát, và các công dân sẽ thực hiện các quyền lợi
và nghĩa vụ xă hội của ḿnh ở nơi cư trú, bất luận họ ở thị tộc hay bộ lạc nào.
Việc tổ chức công dân theo địa phương như thế là chung cho mọi quốc gia. V́
thế, với ta, tổ chức đó dường như là tự nhiên; nhưng như ta đă thấy, cần có một
cuộc đấu tranh gay go kéo dài, th́ tổ chức đó mới được xác lập ở Athens và La
Mă, thay cho tổ chức thân tộc cũ.
Đặc trưng thứ hai của Nhà nước là việc thiết lập một
quyền lực công cộng, không c̣n trực tiếp tương đương với lực lượng vũ trang do
nhân dân tự tổ chức nữa. Thứ quyền lực công cộng đặc biệt này là cần thiết, v́
từ khi xă hội chia thành các giai cấp, th́ không thể có tổ chức vũ trang tự
động của nhân dân được nữa. Nô lệ cũng nằm trong dân cư: đối với 365.000 nô lệ,
th́ 90.000 công dân Athens chỉ là một giai cấp có đặc quyền mà thôi. Quân đội nhân
dân của chế độ dân chủ Athens là một quyền lực công cộng của bọn quí tộc, nhằm
chống lại nô lệ, và bắt họ phải phục tùng; nhưng để bắt cả các công dân tự do
cũng phải phục tùng, th́ cần có một đội cảnh binh, như ở trên đă nói. Quyền lực
công cộng đó tồn tại ở mọi quốc gia; nó không chỉ bao gồm những người có vũ
trang, mà c̣n có cả các công cụ vật chất phụ thêm, như nhà tù, và đủ thứ cơ
quan cưỡng chế mà xă hội thị tộc không hề biết tới. Quyền lực ấy có thể là rất
không đáng kể, trên thực tế là không nhận thấy được, như ở các xă hội mà những
đối lập giai cấp vẫn chưa phát triển, hay ở các vùng xa xôi; như đôi lúc ta
thấy ở một số vùng của Mĩ. Nhưng khi những mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày
càng sâu sắc, và các nước láng giềng ngày càng rộng lớn và đông đúc; th́ quyền
lực đó cũng ngày càng mạnh lên. Cứ nh́n vào châu Âu
ngày nay là đủ: ở đây, đấu tranh giai cấp và chạy đua xâm lược đă đẩy cái quyền
lực công cộng lên tới mức nó đe dọa nuốt gọn cả xă hội, và cả bản thân Nhà
nước.
Để duy tŕ quyền lực công cộng đó, cần có sự đóng góp
của công dân; ấy là thuế má. Cái này th́ xă hội thị tộc hoàn toàn không biết
tới. Nhưng ngày nay, th́ ta đă biết quá đủ về chúng. Với bước tiến của nền văn
minh, th́ cả thuế má cũng không đủ; sau này, Nhà nước c̣n phát hành hối phiếu,
vay nợ, tức là bán công trái. Về điểm này, châu Âu già cỗi cũng có thể kể lại
khá nhiều.
Khi đă nắm được quyền lực công cộng và quyền thu thuế,
đám quan chức - tự coi ḿnh là các cơ quan của xă hội - liền đứng lên trên xă
hội. Ḷng tôn kính tự nguyện trước kia của nhân dân đối với các cơ quan của chế
độ thị tộc, th́ không đủ cho họ nữa; kể cả khi họ có thể nhận được nó. Là các
đại biểu cho một thứ quyền lực đă trở nên xa rời xă hội, họ phải khiến người
khác kính trọng, nhờ các đạo luật đặc biệt, chúng làm cho họ trở nên đặc biệt
thần thánh và bất khả xâm phạm. Viên cảnh sát quèn nhất của nhà nước văn minh
cũng có “uy quyền” lớn hơn mọi cơ quan của xă hội thị tộc cộng lại; nhưng một
vương công, chính khách hay tướng lĩnh lớn nhất của thời văn minh có lẽ vẫn
phải ghen tị với một thủ lĩnh thấp nhất trong thị tộc, về ḷng tôn kính không
thể chối căi - và cũng không cần dùng roi gậy mới có - mà thủ lĩnh ấy nhận
được. Một người nằm ngay trong ḷng xă hội, c̣n người kia phải cố coi ḿnh là
kẻ ở ngoài và đứng trên xă hội.
V́ Nhà nước xuất hiện do nhu cầu kiềm chế những đối
lập giai cấp, đồng thời cũng xuất hiện từ chính những xung đột giai cấp, nên đó
thường là Nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, giai cấp thống trị về kinh tế;
nhờ có Nhà nước, giai cấp đó cũng thống trị về chính trị, do đó lại có các
phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị trị. Trên hết, Nhà nước cổ đại
là của chủ nô, dùng để đàn áp nô lệ; Nhà nước phong kiến là cơ quan của quí
tộc, dùng để đàn áp nông nô và nông dân bị lệ thuộc; c̣n Nhà nước đại nghị hiện
đại là công cụ của tư bản để bóc lột lao động làm thuê. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi mà các giai cấp đang
đấu tranh với nhau đạt tới một thế cân bằng nhất định; khiến cho Nhà nước tạm
thời được độc lập ở một mức độ nào đó đối với cả hai bên, tựa như một kẻ trung
gian. Đó là chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỉ XVII và XVIII, đă giữ thế thăng
bằng giữa bọn quí tộc và giai cấp tư sản; là chế độ Bonaparte của Đế chế thứ
nhất, và đặc biệt là Đế chế thứ hai ở Pháp, nó đă đẩy giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản, rồi lại đẩy giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản. Thành
tựu mới nhất về mặt này, trong đó kẻ thống trị cũng như người bị trị đều đáng
buồn cười cả, đó là tân Đế chế Đức của các quốc gia của Bismarck; nó đă tạo thế
cân bằng giữa các nhà tư bản và công nhân đang đối lập với nhau, và lừa đảo cả
hai giai cấp trên, để bọn Junker nước Phổ - vốn đang bị sa
sút - được hưởng lợi.
Hơn nữa, trong đa số các Nhà nước từng tồn tại trong
lịch sử, th́ quyền lợi mà nó ban cho các công dân đều được đo bằng tài sản của
họ; qua đó nó trực tiếp thú nhận rằng Nhà nước là một tổ chức dùng để bảo vệ
giai cấp hữu sản, và chống lại giai cấp không có của. Đó là việc phân chia tầng
lớp theo tài sản, như ở Athens và La Mă. Với Nhà nước phong kiến Trung cổ cũng
vậy, thế lực chính trị được quyết định bởi qui mô chiếm hữu ruộng đất. Việc xác
định tư cách cử tri, như ở các Nhà nước đại nghị hiện đại, cũng là h́nh thức
tương tự. Nhưng, sự thừa nhận về mặt chính trị đối với sự chênh lệch về tài sản
hoàn toàn không phải là cái căn bản. Ngược lại, nó chứng tỏ một tŕnh độ phát
triển thấp của Nhà nước. H́nh thức cao nhất của Nhà nước, là chế độ cộng ḥa
dân chủ, đang ngày càng trở thành một tất yếu không thể tránh khỏi trong điều
kiện của xă hội chúng ta ngày nay, và là h́nh thức Nhà nước duy nhất, mà trong
đó, cuộc đấu tranh quyết định giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản có thể
diễn ra tới cùng; chế độ ấy không chính thức thừa nhận sự chênh lệch về của cải
nữa. Lúc này, của cải phát huy quyền lực của nó một cách
gián tiếp, nhưng lại chắc chắn hơn. Có hai cách: trực tiếp mua chuộc các viên
chức, mà Mĩ là ví dụ điển h́nh; và liên minh giữa chính phủ với Sở giao dịch
chứng khoán: việc này lại càng dễ thực hiện, khi mà các món nợ của Nhà nước
ngày càng tăng; c̣n các công ti cổ phần, coi trung tâm hoạt động của ḿnh là Sở
giao dịch chứng khoán, th́ ngày càng tập trung vào tay ḿnh, không chỉ ngành
vận tải mà ngay cả ngành sản xuất nữa. Ngoài nước Mĩ, th́ nền cộng ḥa mới đây
của Pháp cũng là ví dụ nổi bật, và cả nước Thụy Sĩ thuần phong mĩ tục cũng
không chịu kém cạnh. Nhưng không nhất thiết phải có chế độ cộng ḥa dân chủ,
th́ mới có cái liên minh hữu hảo giữa chính phủ và Sở giao dịch chứng khoán;
điều này đă được chứng minh, không chỉ ở nước Anh, mà cả ở tân Đế chế Đức: ở
đó, khó có thể nói là kẻ nào đă được phổ thông đầu phiếu đề lên cao hơn;
Bismarck hay Bleichröder. Sau cùng th́ giai cấp hữu sản trực tiếp thống trị
bằng phổ thông đầu phiếu. Chừng nào giai cấp bị trị, ở đây là giai cấp vô sản, chưa
đủ trưởng thành để tự giải phóng ḿnh; th́ chừng đó, đa số họ sẽ vẫn coi chế độ
xă hội hiện tồn là chế độ duy nhất có thể có, và họ sẽ theo đuôi giai cấp các
nhà tư bản về mặt chính trị, trở thành cánh cực tả của giai cấp đó. Nhưng đến
khi giai cấp vô sản đủ chín chắn để tự giải phóng ḿnh, th́ lúc ấy, nó tự tổ
chức ra đảng của riêng ḿnh; nó bầu ra những người đại diện cho ḿnh, chứ không
phải những người đại diện cho các nhà tư bản. Vậy, phổ thông đầu phiếu là cái
thước đo mức độ trưởng thành của giai cấp công nhân. Nó không thể, và không bao
giờ có thể, đem lại nhiều hơn thế, với Nhà nước ngày nay; nhưng như vậy cũng
đủ. Ngày mà cái nhiệt kế phổ thông đầu phiếu chỉ điểm sôi trong những người
công nhân; th́ họ, cũng như các nhà tư bản, sẽ biết rằng ḿnh phải làm ǵ.
Vậy, không phải lúc nào cũng có Nhà nước. Đă từng có
những xă hội không cần tới Nhà nước, không có khái niệm ǵ về Nhà nước hay
quyền lực Nhà nước cả. Tới một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, và phải
gắn liền với việc phân chia xă hội thành giai cấp; th́ sự phân chia đó làm cho
Nhà nước trở thành một tất yếu. Giờ đây, ta đang tiến nhanh tới một giai đoạn
phát triển sản xuất; trong đó, sự tồn tại của các giai cấp không những không
c̣n là một tất yếu, mà c̣n biến thành một trở ngại rơ ràng cho sản xuất. Các
giai cấp đó tất yếu sẽ mất đi, cũng như xưa kia, chúng đă tất yếu phải xuất
hiện. Giai cấp biến mất, th́ Nhà nước nhất định sẽ biến mất theo. Xă hội sẽ tổ
chức lại nền sản xuất, trên cơ sở liên hợp tự do và b́nh đẳng giữa những người
sản xuất; và sẽ xếp toàn thể bộ máy Nhà nước vào cái vị trí đích thực của nó
khi ấy: đó là ở bảo tàng đồ cổ, bên cạnh chiếc guồng kéo sợi và cái ŕu đồng.
Vậy, theo các phân tích nêu trên, thời văn minh là một
giai đoạn phát triển của xă hội. Ở đó, sự phân công
lao động, rồi đến sự trao đổi giữa các cá nhân, vốn là do phân công lao động mà
ra, và nền sản xuất hàng hóa, là sự kết hợp hai quá tŕnh nói trên, đều đạt tới
sự phát triển toàn thịnh, và gây ra một cuộc cách mạng trong toàn bộ xă hội trước
đây.
Ở mọi giai đoạn phát triển trước đó của xă hội, nền
sản xuất về căn bản là có tính tập thể; tiêu dùng cũng thế, nó trở thành việc
phân phối trực tiếp sản phẩm, được tiến hành bên trong các công xă cộng sản chủ
nghĩa lớn nhỏ. Nền sản xuất tập thể ấy rất nhỏ hẹp, nhưng chính trong nền sản
xuất đó, người sản xuất lại làm chủ được quá tŕnh sản xuất và sản phẩm của
ḿnh. Họ biết được sản phẩm đó sẽ thế nào: họ tiêu dùng chúng, chúng không rời
khỏi tay họ. Và chừng nào việc sản xuất c̣n dựa trên cơ sở đó, th́ nó không thể
vượt quá tầm kiểm soát của người sản xuất, và đẻ ra những lực lượng thần bí và
xa lạ với họ; điều vẫn luôn xảy ra và tất yếu phải xảy ra trong thời văn minh.
Nhưng sự phân công lao động đă từ từ thâm nhập vào quá
tŕnh sản xuất đó. Nó phá hủy tính tập thể của sản xuất và chiếm hữu, đưa việc
chiếm hữu tư nhân lên thành một qui tắc phổ biến, do đó mà làm xuất hiện sự
trao đổi giữa các cá nhân; việc đó diễn ra như thế nào, trên đây ta đă nghiên
cứu rồi. Dần dần, nền sản xuất hàng hóa đă trở thành h́nh thức thống trị.
Với nền sản xuất hàng hóa, tức là sản xuất không phải
để tự ḿnh tiêu dùng, mà là để trao đổi; th́ sản phẩm ắt phải chuyển từ tay
người này tới tay kẻ kia. Với việc trao đổi, người sản xuất đă bỏ mặc sản phẩm
của ḿnh cho kẻ khác, và không biết sau này nó sẽ ra sao. Từ khi tiền, cùng với
đó là thương nhân, xuất hiện với tư cách kẻ trung gian giữa những người sản
xuất, th́ quá tŕnh trao đổi càng trở nên phức tạp, và càng không biết chắc
được số phận cuối cùng của sản phẩm. Tầng lớp thương nhân th́ rất đông, không
ai trong số họ biết được những kẻ khác đang làm ǵ. Hàng hóa không chỉ từ tay
người này sang tay người khác, mà c̣n từ thị trường này sang thị trường khác;
người sản xuất đă mất quyền kiểm soát toàn bộ nền sản xuất, và thương nhân cũng
không có được quyền kiểm soát ấy. Sản phẩm và sản xuất đều phó mặc cho ngẫu
nhiên định đoạt.
Nhưng ngẫu nhiên chỉ là một cực của mối liên hệ, mà
cực kia có tên là “tất yếu”. Trong giới tự nhiên, nơi mà dường như tính ngẫu
nhiên cũng thống trị; th́ từ lâu rồi, ta đă chứng minh tính tất yếu và tính qui
luật nội tại, chúng đều tự thể hiện ra, ngay trong khuôn khổ của tính ngẫu
nhiên. Nhưng cái ǵ đúng với giới tự nhiên th́ cũng đúng với xă hội. Một hoạt
động xă hội, hay một loạt quá tŕnh xă hội, mà càng vượt quá sự kiểm soát tự
giác của con người, và càng ra khỏi phạm vi chi phối của họ; th́ nó dường như
càng bị phó mặc cho tính ngẫu nhiên thuần túy, và chính trong cái ngẫu nhiên
đó, những qui luật nội tại cố hữu của chúng lại càng tự thể hiện ḿnh, với một
sự tất yếu tự nhiên. Những qui luật như thế cũng ngự trị, trong cái ngẫu
nhiên của nền sản xuất và trao đổi hàng hóa. Với những người sản xuất và trao
đổi riêng rẽ, chúng như các lực lượng xa lạ, mà lúc đầu người ta thường không
nhận thấy; bản chất của các lực lượng ấy phải được nghiên cứu và nhận thức một
cách kĩ lưỡng. Những qui luật kinh tế này của nền sản xuất hàng hóa c̣n biến
đổi tùy theo các giai đoạn phát triển của h́nh thức sản xuất, nhưng nói chung,
toàn bộ thời văn minh đều nằm dưới sự thống trị của chúng. Cho tới ngày nay,
sản phẩm vẫn thống trị người sản xuất; và cho tới ngày nay, toàn bộ nền sản
xuất xă hội vẫn được điều tiết, không phải bởi một kế hoạch do xă hội đề ra, mà
là bởi các qui luật mù quáng; chúng vẫn tự thể hiện ḿnh, với một sự dữ dội
mang tính tự nhiên, mà mức độ cao nhất là trong những cơn băo táp của các cuộc
khủng hoảng thương mại định ḱ.
Trên đây, ta đă thấy rằng: ở một giai đoạn phát triển
khá sớm của sản xuất, sức lao động của con người đă có thể tạo ra một lượng sản
phẩm lớn hơn mức cần thiết cho sinh hoạt như thế nào; và giai đoạn phát triển
đó, về căn bản, cũng trùng với sự ra đời của sự phân công lao động, và sự trao
đổi giữa các cá nhân như thế nào. Chẳng bao lâu sau, một “chân lí” vĩ đại đă
được phát hiện ra: con người cũng có thể trở thành hàng hóa, sức người3 cũng có
thể đem trao đổi và sử dụng được, nhờ việc biến con người thành nô lệ. Loài
người vừa bắt đầu tiến hành sự trao đổi, th́ chính họ lại cũng trở thành những
thứ được đem ra trao đổi. Thể chủ động biến thành thể bị động, dù người ta muốn
hay không.
Cùng với chế độ nô lệ, vốn đă đạt tới mức phát triển
cao nhất trong thời văn minh, th́ sự phân chia lớn đầu tiên của xă hội, thành
giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, cũng đă diễn ra. Sự phân chia đó tiếp
tục tồn tại trong suốt thời văn minh. Chế độ nô lệ là h́nh thức bóc lột đầu
tiên, đặc trưng cho thế giới cổ đại; kế tiếp nó là chế độ nông nô thời Trung
cổ, và chế độ làm thuê thời nay. Đó là ba h́nh thức nô dịch lớn, đặc trưng cho
ba giai đoạn lớn của văn minh; chế độ nô lệ công khai, và nay là chế độ nô lệ
ngụy trang, luôn đi kèm với thời văn minh.
Về mặt kinh tế, giai đoạn sản xuất hàng hóa - mà thời
đại văn minh bắt đầu cùng với nó - được đánh dấu bằng sự ra đời của: 1) tiền
kim khí, cùng với nó là tư bản dưới dạng tiền, lợi tức, và tệ cho vay nặng lăi;
2) thương nhân, với tư cách là giai cấp những kẻ trung gian, đứng giữa những
người sản xuất; 3) chế độ tư hữu ruộng đất, và chế độ cầm cố; 4) lao động của
nô lệ, với tư cách là h́nh thức sản xuất thống trị. H́nh thức gia đ́nh phù hợp
với thời văn minh, và chiếm ưu thế rơ rệt trong thời này, là chế độ hôn nhân cá
thể, là sự thống trị của đàn ông đối với đàn bà, là gia đ́nh cá thể, với tư
cách là đơn vị kinh tế của xă hội. Lực lượng chủ yếu gắn kết xă hội văn minh là
Nhà nước: trong tất cả những thời ḱ điển h́nh, đó vẫn là Nhà nước của giai cấp
thống trị, không có ngoại lệ nào cả; và ở mọi trường hợp, về cơ bản, nó vẫn là một
bộ máy được dùng để đàn áp giai cấp bị trị, bị bóc lột. Thời đại văn minh c̣n
có những đặc trưng khác: việc củng cố sự đối lập giữa thành thị và nông thôn,
coi đó là cơ sở của toàn bộ sự phân công lao động xă hội; là sự xuất hiện chế
độ di chúc, nhờ đó mà kẻ có của có thể chi phối tài sản của ḿnh kể cả khi y đă
chết. Thể chế này đối đầu trực tiếp với chế độ thị tộc cổ: ở Athens, măi tới
thời Solon, người ta vẫn chưa biết đến nó; ở La Mă, nó có từ khá sớm, nhưng ta
không biết thời điểm cụ thể4*; ở người Germania, thầy tu là những kẻ đă du nhập
thể chế ấy, nhờ đó mà những người Đức ngoan đạo đă có thể để lại tài sản của
ḿnh cho Giáo hội.
Với các cơ sở đó, thời văn minh đă đạt được những điều
mà xă hội thị tộc không thể có được. Nhưng nó đă thu được các thành quả ấy nhờ
việc kích thích những bản năng và dục vọng thấp kém nhất của con người, và phát
triển chúng; làm tổn hại tới mọi năng lực khác của con người. Động lực của thời
văn minh, từ ngày đầu cho tới ngày nay, là ḷng tham đê tiện; giàu có, giàu có
nữa, giàu có hơn, nhưng không phải sự giàu có của xă hội, mà là của cái cá nhân
riêng lẻ nhỏ nhen kia, đó là mục đích duy nhất và cuối cùng của thời văn minh.
Nếu như cũng trong thời đại ấy, khoa học đă ngày càng phát triển, và những thời
ḱ rực rỡ huy hoàng của nghệ thuật đă nhiều lần lặp lại; th́ đó chỉ là v́, nếu
không có chúng, th́ sẽ không có được tất cả những thành tựu của thời đại ngày
nay, trong việc tích lũy của cải.
V́ cơ sở của thời đại văn minh là sự bóc lột của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác, nên toàn bộ sự phát triển của nó diễn
ra trong một mối mâu thuẫn thường trực. Mỗi bước tiến trong sản xuất đồng thời
đánh dấu một bước lùi trong t́nh cảnh của giai cấp bị áp bức, nghĩa là của đại
đa số. Lợi ích của người này nhất định phải là tổn hại đối với người kia, mỗi
cuộc giải phóng mới của một giai cấp này lại là một ách áp bức mới đối với một
giai cấp khác. Bằng chứng nổi bật nhất về điều đó chính là việc sử dụng máy
móc, với những hậu quả mà giờ đây ai cũng biết. Và như ta đă thấy, nếu như
người dă man rất khó phân biệt quyền lợi với nghĩa vụ; th́ thời văn minh lại
cho người ta thấy rơ, với cả những ai ngu ngốc nhất, sự khác biệt và đối lập
giữa quyền lợi và nghĩa vụ; khi nó đem lại hầu hết các quyền lợi cho một giai
cấp, và đổ hầu hết các nghĩa vụ cho một giai cấp khác.
Nhưng không thể để như thế được: cái ǵ là tốt cho
giai cấp thống trị, th́ cũng phải là tốt cho toàn thể xă hội; và giai cấp thống
trị phải đồng nhất chính ḿnh với toàn thể xă hội. V́ thế, khi văn minh càng
tiến lên, th́ nó lại càng buộc phải phủ lớp áo bác ái lên trên các tệ nạn mà nó
nhất định phải đẻ ra, phải tẩy trắng và phủ nhận chúng; tóm lại, nó buộc phải
thực hành một kiểu đạo đức giả thường ngày, mà các h́nh thái xă hội trước đây,
và ngay cả các giai đoạn đầu của thời văn minh, đều chưa từng biết tới. Lối đạo
đức giả đó lên tới đỉnh điểm với cái tuyên bố này: giai cấp bóc lột tiến hành
bóc lột đối với giai cấp bị bóc lột, cũng chỉ v́ lợi ích của chính giai cấp bị
bóc lột; và nếu giai cấp bị bóc lột không hiểu điều đó, và c̣n đứng lên chống
lại, th́ đó là điều vong ân bội nghĩa hèn hạ nhất đối với những ân nhân của họ,
tức là những kẻ bóc lột họ5*.
Và giờ, để kết luận, sẽ là nhận định của Morgan về
thời văn minh:
“Từ khi thời văn minh đến, sự tăng thêm của cải đă
diễn ra rất mạnh mẽ, các h́nh thức của chúng th́ quá là đa dạng, việc sử dụng
chúng th́ hết sức rộng răi, và việc quản lí chúng, v́ lợi ích của những kẻ hữu
sản, th́ cực ḱ khéo léo; nên đối với nhân dân, chúng đă trở thành một lực
lượng không thể khống chế nổi. Trí tuệ của con người đang đứng hoang mang, bỡ
ngỡ; trước những cái do chính ḿnh tạo ra. Nhưng, cũng sẽ có một ngày, mà lí
trí của con người đủ mạnh để chi phối của cải, và chi phối quan hệ của Nhà nước
với cái tài sản mà nó đang bảo hộ; cũng như qui định những giới hạn về quyền
lợi, và cả những nghĩa vụ của người hữu sản. Lợi ích của xă hội là tối cao so
với lợi ích của cá nhân, và phải tạo ra những mối quan hệ công bằng và ḥa hợp
giữa chúng. Nếu như sự tiến bộ vẫn là qui luật của tương lai, cũng như nó từng
là qui luật của quá khứ; th́ việc đơn thuần t́m kiếm của cải sẽ không phải là
mục đích cuối cùng của loài người. Quăng thời gian đă qua, kể từ khi thời văn minh
bắt đầu, chỉ là một mẩu nhỏ trong khoảng thời gian tồn tại đă qua, và cũng chỉ
là một mẩu nhỏ trong khoảng thời gian tồn tại sắp tới của nhân loại. Sự tan
biến của cái h́nh thái hoạt động lịch sử, với mục đích cuối cùng duy nhất là
làm giàu ấy, đang đe dọa tiêu diệt cả xă hội; v́ bản thân hoạt động đó đă chứa đựng những yếu tố khiến nó phải tự hủy diệt
ḿnh. Dân chủ trong việc quản lí, hữu ái trong xă hội, b́nh đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ, phổ biến giáo dục; chúng báo hiệu cái giai đoạn cao hơn sắp tới
của xă hội, mà kinh nghiệm, lí trí và khoa học đang không ngừng vươn tới. Đó sẽ
là sự phục sinh dưới h́nh thức cao hơn, của tự do - b́nh đẳng - bác ái có ở các
thị tộc cổ đại” (“Xă hội Cổ đại”, tr. 552)
Chú thích của Engels
1* Đặc biệt ở vùng bờ biển Tây Bắc châu Mĩ (xem
Bancroft*). Ở người Haida sống trên quần đảo Hoàng hậu Charlotte, có những hộ
gồm 700 người sống vào cùng một nhà. Ở người Nootka, nhiều bộ lạc sống hết thảy
vào một nhà.
2* Số nô lệ ở Athens, xin xem ở cuối phần “Sự h́nh
thành Nhà nước Athens”*. Ở Corinth vào thời ḱ cực thịnh, có tất cả 460.000 nô
lệ; ở Aegina có 470.000 nô lệ. Với cả
hai trường hợp, số nô lệ đều gấp 10 lần số công
dân tự do.
3* Sử gia đầu tiên đă có một quan niệm - ít ra là
gần đúng - về thị tộc chính là Niebuhr, ấy là v́ ông có biết tới các thị tộc ở
Dithmarschen; nhưng các sai lầm của ông cũng trực tiếp từ đó mà ra.
4* Quyển “Hệ thống những quyền đă có được” của
Lassalle, ở phần hai, chủ yếu xoay quanh luận điểm rằng chế độ di chúc ở La Mă
cũng cổ xưa như bản thân La Mă, rằng trong lịch sử La Mă, không bao giờ có “một
thời ḱ nào mà lại không có chế độ di chúc”; rằng đúng ra th́ chế độ di chúc đă
có từ thời trước La Mă, bắt nguồn từ sự thờ cúng người chết. Lassalle, với tư
cách một người trung thành với phái Hegel cũ, cho là các qui chuẩn pháp lí của
La Mă không bắt nguồn từ các điều kiện xă hội của người La Mă, mà là từ “khái
niệm tư biện” của ư chí; điều đó dẫn tới cái nhận định hoàn toàn phi lịch sử
nói trên. Điều này không có ǵ lạ, khi mà trong cuốn sách đó, do cũng dựa trên
khái niệm tư biện ấy, tác giả đă đi tới kết luận rằng: trong chế độ thừa kế của
người La Mă, việc chuyển giao tài sản hoàn toàn là thứ yếu mà thôi. Lassalle không những tin vào những ảo tưởng của
các nhà luật học La Mă, nhất là những người thuộc thời ḱ đầu; mà ông ta c̣n
vượt qua họ nữa.
5* Lúc đầu, tôi định đặt sự phê phán xuất sắc về
thời văn minh - nằm rải rác trong các tác phẩm - của Charles Fourier bên cạnh
sự phê phán của Morgan và của chính tôi. Không may, tôi không có thời gian. Tôi
sẽ chỉ nhận định rằng: Fourier đă coi hôn nhân cá thể và tư hữu ruộng đất là
những đặc trưng chính của thời văn minh, và ông gọi thời văn minh là cuộc chiến
của người giàu chống lại người nghèo. Ta cũng thấy trong tác phẩm của ông có
một nhận xét sâu sắc rằng: trong tất cả các xă hội không hoàn thiện, và bị xâu
xé bởi các mâu thuẫn; th́ gia đ́nh riêng rẽ (les familles incohérentes) đều là
các đơn vị kinh tế.
Chú thích của người dịch
1 Ở bản in năm 1884, đoạn "sở hữu riêng rẽ" được ghi là "sở hữu tư nhân".
2 Tiếng Pháp theo đúng nguyên bản, nghĩa là “Chính anh
đă muốn thế, George Dandin!” (Molière, “George Dandin”; hồi I, cảnh 9).
3 Ở bản in năm 1884, đoạn "sức người" được ghi là "sức lao động của con người".
[Chương trước]
[Mục lục]